Tỉnh Quảng Ninh hiện có 4 thành phố, 2 thị xã, song có trên 60% đơn vị hành chính cấp xã (109/177) là miền núi, biên giới, hải đảo; 22 dân tộc thiểu số (DTTS) chỉ chiếm 12,31% dân số toàn tỉnh, nhưng cư trú trên 85% diện tích của tỉnh, chủ yếu ở địa bàn miền núi, hải đảo, biên giới khó khăn, có vị trí chiến lược trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Theo Cục thống kê tỉnh, đến năm 2020 khoảng cách giữa 20% người giàu nhất với 20% người nghèo nhất trong tỉnh chênh lệch trên 8 lần. Đây là áp lực rất lớn đối với Quảng Ninh trong thực hiện nhiệm vụ thu hẹp chênh lệch phát triển vùng miền, để không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình phát triển.

Những thửa ruộng bậc thang lúa chín vàng óng, những homestay thấp thoáng trong mây, lời reo hò cổ vũ vang cả núi rừng trong những trận cầu có một không hai trên hành tinh này của các cô gái Sán Chỉ mặc váy đá bóng... Đó là bức tranh sinh động, sắc màu nhất phản ánh hiện thực đời sống của đồng bào các DTTS ở các địa bàn giáp biên giới thuộc huyện Bình Liêu, Hải Hà, TP Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh.

Từng là một hộ trong diện đặc biệt khó khăn của bản Phai Lầu (xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu), anh Dường Chống Nỉ không nghĩ sẽ có một ngày gia đình 5 miệng ăn của vợ chồng anh lại thoát được cảnh “ăn bữa nay, lo bữa mai”. Không những xây được căn nhà kiên cố, khang trang, gia đình anh còn sắm được 3 chiếc xe máy làm phương tiện đi lại cho vợ chồng và người con lớn, cùng nhiều vật dụng sinh hoạt khác như ti vi, tủ lạnh, bếp ga, máy vi tính cho đứa con nhỏ học tập.

“Phai Lầu là bản giáp biên giới xa nhất của huyện Bình Liêu. Bản mình là bản di dân kinh tế mới. Các hộ đến đây sinh sống đều là hộ nghèo, điều kiện sinh hoạt, đi lại, canh tác vô cùng khó khăn, bao năm nay cứ “ăn bữa nay, lo bữa mai” cũng quen rồi, chả ai mơ, nghĩ có một ngày bản có đường bê tông, gia đình nuôi đàn dê lớn, trồng cánh rừng to như hôm nay. Tỉnh, huyện làm đường, hỗ trợ tiền làm nhà, tiền mua đàn dê về chăn thả, bộ đội hướng dẫn cách trồng rừng quế, hồi, chăm sóc, khai thác. Từ cái “bột” đó mà “gột được lên hồ”, giờ vợ chồng mình đã nuôi mấy chục con dê lớn thêm một đàn lợn thịt. Vợ mình chăn đàn dê, nuôi con lợn, còn mình đi thu mua thêm hồi, quế của bà con để bán lại cho đầu mối. Nhờ đó mà kinh tế gia đình có được cơ ngơi như ngày hôm nay, cuộc sống khá giả hơn, các cháu cũng no đủ, chuyên tâm học hành” - anh Dường Chống Nỉ phấn khởi chia sẻ.

Cách nhà anh Nỉ không xa là nhà ông Tằng Văn Quay. Gia đình ông cũng mới sửa lại nhà ở khang trang, sạch, đẹp, mua thêm 1 chiếc xe máy tay ga đời mới. Chúng tôi gặp ông lúc cuối ngày, khi ông vừa lùa những “cây vàng biết đi” về khu chuồng phía sau nhà. Khoe với chúng tôi trong chuồng đang có hơn 10 con bò béo mộng, ông Quay vui vẻ nói: Chúng là vàng, là bạc của tôi đấy. Mấy năm nay, kinh tế gia đình tôi khấm khá hơn, sắm sanh, sửa chữa nhà cửa được là từ chúng nó cả. Cán bộ huyện, xã và bộ đội đến từng nhà bảo đất rừng, đất ruộng nhiều, để hoang cỏ mọc thì nuôi thêm con bò, con bê để phát triển kinh tế. Rồi Nhà nước hỗ trợ về vốn, kỹ thuật chăn nuôi, thế là nhà tôi có đàn bò. Tiền thu về trăm triệu đồng đấy. Tôi có sổ tiết kiệm gửi ở ngân hàng, sau này già không chăn được bò nữa thì có tiền đó dưỡng già; đàn bò để con trai chăn, lấy vốn mà phát triển kinh tế”.

Câu chuyện về hộ này, hộ kia xây nhà mới, mua sắm đồ dùng sinh hoạt đắt tiền ngày càng nhiều hơn trong các gia đình ở bản Phai Lầu. Ông Tằng Dảu Tình, Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Phai Lầu, cho biết: Phai Lầu từng là thôn đặc biệt khó khăn của huyện với 100% là hộ nghèo. Từ năm 2015 khi các chủ trương, chính sách thực hiện giảm nghèo cho vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới được tỉnh triển khai mạnh mẽ thông qua Chương trình 135, Đề án 196, Nghị quyết số 06-NQ/TU (ngày 17/5/2021) của BCH Đảng bộ tỉnh, Phai Lầu dần đã rũ bỏ “tấm áo khó” để khoác lên mình sức sống mới, sung túc hơn. Bản hiện có 60/95 hộ có rừng quế, hồi vào chu kỳ khai thác; nhiều hộ có đàn gia súc lớn; có những hộ biết làm kinh doanh, đầu mối thu mua nông sản cho bà con trong bản. Người dân bản đã có tiền trăm triệu đồng gửi tiết kiệm ngân hàng. Năm ngoái, có 2 hộ còn mua được cả ô tô con. Niềm vui lớn nhất là bây giờ bà con trong bản không còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước cho gạo hằng năm nữa, mà đã biết vận dụng hiệu quả các công trình dân sinh, nguồn vốn, cây, con giống, biết “nhận” sự đầu tư và “trao” lại sự nỗ lực, đoàn kết để cùng nhau vươn lên, thoát khó làm giàu. Đó chính là điều cốt lõi để Phai Lầu có cơ sở vững chắc tiếp tục phát triển, xây dựng cuộc sống ngày càng tươi sáng, ấm no.

Đàn bò mang lại thu nhập cả trăm triệu đồng cho gia đình ông Tằng Văn Quay (bản Phai Lầu, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu).

Đàn bò mang lại thu nhập cả trăm triệu đồng cho gia đình ông Tằng Văn Quay (bản Phai Lầu, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu).

Người dân Bình Liêu phơi miến dong.

Người dân Bình Liêu phơi miến dong.

Cuộc sống người dân Bình Liêu đang dần rũ bỏ “tấm áo khó” để khoác lên mình sức sống mới, sung túc hơn.

Cuộc sống người dân Bình Liêu đang dần rũ bỏ “tấm áo khó” để khoác lên mình sức sống mới, sung túc hơn.

Phụ nữ thôn Làng Cang (xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ) sửa soạn trang phục tham gia biểu diễn dân vũ.

Phụ nữ thôn Làng Cang (xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ) sửa soạn trang phục tham gia biểu diễn dân vũ.

Đồng bào Dao thôn Khe Phương (xã Kỳ Thượng, TP Hạ Long) gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống để phát triển du lịch.

Đồng bào Dao thôn Khe Phương (xã Kỳ Thượng, TP Hạ Long) gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống để phát triển du lịch.

Xã Đồn Đạc cũng 100% là đồng bào DTTS sinh sống, từng được coi là “rốn nghèo” của huyện Ba Chẽ, những năm gần đây, đời sống của bà con thay đổi từng ngày khi các mô hình trồng cây trà hoa vàng, ba kích tím mang lại nguồn thu lớn. Theo thống kê của UBND huyện, tính đến cuối năm 2021, thu nhập bình quân của xã Đồn Đạc đạt 51,4 triệu đồng/người/năm. Giờ đây sinh nhai không còn là nỗi lo thường nhật của bà con Đồn Đạc nữa. 

Cứ vào dịp cuối tuần là Nhà văn hóa thôn Làng Cang (xã Đồn Đạc) lại vang lên tiếng nhạc sôi động, sự tươi vui, trẻ trung hiện rõ trên những gương mặt của phụ nữ Dao nơi đây. Sau những ngày làm việc mệt nhọc nơi đồng áng, trên đồi, nương, các chị em lại có mặt ở Nhà văn hóa thôn để hướng dẫn, luyện tập các điệu nhảy dân vũ. Sắc hồng, đen, xanh, tím, đỏ của trang phục truyền thống được chị em khéo léo may sao cho bắt mắt nhất, để mỗi bước chân, các vạt áo, sợi dây tơ trang trí theo đó mà thêm phần sinh động. Kết thúc một điệu nhảy mới, chị Triệu Thị Nga (thôn Làng Cang) phấn khởi nói: Đời sống được nâng lên, chị em phụ nữ chúng tôi dành nhiều thời gian để tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, như hát múa, dân vũ, chơi bóng chuyền... Không chỉ rèn luyện sức khỏe, mà còn qua đó nâng cao tinh thần đoàn kết, xây dựng lối sống văn minh".

Tại xã vùng cao Kỳ Thượng (TP Hạ Long), giấc mơ trở thành một công dân của vùng đất lâm viên đang từng ngày hiện hữu trong nếp nghĩ và tư duy của đồng bào nơi đây. Khi những bó buộc về điều kiện sinh hoạt như đường sá, điện chiếu sáng, nước sạch sinh hoạt, sóng di động đã được “cởi bỏ”, thì ý chí và khát vọng làm giàu cũng theo sóng vô tuyến, phát thanh, mạng internet nhân lên trong ý nghĩ, hành động của đồng bào.

Cách đây 2 năm, khi đường lên thôn Khe Phương (xã Kỳ Thượng) đã thuận lợi, anh Lý Văn Ngân đã có ý tưởng xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại địa phương. Khu du lịch nghỉ dưỡng Am Vap Farm được hình thành từ đó. Rất nhanh, những ngày cuối tuần, đường lên Khe Phương luôn nhộn nhịp xe ô tô biển số trong và ngoài tỉnh, mang theo những đoàn khách đến trải nghiệm, khám phá vẻ đẹp cảnh quan, con người, văn hóa của người dân bản địa. Từ mô hình của anh Ngân, đã có hàng chục hộ dân thôn đăng ký tham gia với vai trò là hướng dẫn viên du lịch, nhân viên phục vụ, đầu bếp, trình diễn trang phục và nghề truyền thống... Nhiều hộ trong thôn cũng bắt đầu triển khai những mô hình trồng trọt, chăn nuôi quy mô lớn hơn để bắt nhịp với xu hướng mới, khi du lịch được đẩy mạnh.

Những câu chuyện thoát khó làm giàu ngày càng trở nên nhiều hơn tại các thôn, bản vùng miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh. Hành trình vươn lên của họ cũng chưa từng dễ dàng. Bên cạnh sự chủ động, biết tận dụng cơ hội, cần cù, chịu khó, thì sự trợ lực, động viên, khích lệ kịp thời của các các cơ quan, đơn vị, địa phương là lực đẩy mạnh để họ vươn lên thoát nghèo, làm giàu.

“Không cho không, không làm thay, làm hộ, ngân sách sẽ chỉ hỗ trợ khi các địa phương có giải pháp cụ thể, sát thực tiễn, xuất phát từ nhu cầu thực tế của nhân dân” - đó chính là phương châm của Quảng Ninh để thổi bùng khát vọng làm giàu với người dân nơi vùng phên dậu của đất nước. Không chỉ trao “cần câu”, Quảng Ninh còn tạo thêm những con thuyền, những bến cảng, để nối dài kế sinh nhai, giúp người dân thoát nghèo bền vững.

Từng đau đáu khát vọng thoát nghèo, nhưng gia sản của vợ chồng chị Triệu Kim Hương (xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ) không đủ để thế chấp vay vốn ngân hàng phát triển kinh tế. “Cái khó bó cái khôn” khiến cho cuộc sống của gia đình chị Hương luôn nằm trong diện hộ nghèo của địa phương. Thế rồi khi được sự trợ lực thông qua việc Hội Nông dân, Hội Phụ nữ bảo lãnh vay 50 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội, khát vọng thoát nghèo, làm giàu của chị Hương đã được thổi bùng lên.

Từ số tiền này, năm 2015 chị Hương xoay sở, trồng đồi trà hoa vàng, lần hồi đến nay, chị đã có cả một khoảnh đồi hơn 1ha trồng loại cây này. Đến nay đồi trà đã cho chị những "chỉ vàng" hằng tháng nhờ bán lá cây, bán hoa trà. Chỉ năm sau thôi, khi đồi chè đồng loạt cho thu hoạch hoa, thì mỗi năm gia đình chị sẽ thu được hàng trăm triệu đồng. Nợ ngân hàng đã trả xong, tiền thu từ đồi trà đủ nuôi được 2 con học tại trường chuyên của tỉnh, chị Triệu Kim Hương đang dự tính liên kết với bà con trong thôn nhân rộng vườn trà, làm đầu mối cung cấp sản lượng trà tươi cho HTX Dược liệu trà hoa vàng Ba Chẽ. 

Phụ nữ Sán Chỉ (xã Húc Động, huyện Bình Liêu) dành nhiều thời gian cho các hoạt động văn nghệ, thể thao, nâng cao đời sống tinh thần.

Phụ nữ Sán Chỉ (xã Húc Động, huyện Bình Liêu) dành nhiều thời gian cho các hoạt động văn nghệ, thể thao, nâng cao đời sống tinh thần.

Thế hệ 7x chúng tôi hầu hết đều mơ ước được là công dân của các đô thị, nên đã nỗ lực hết sức mình từ việc học để dời làng, để có được việc làm ổn định, có một căn nhà ống chốn thị thành. Nhưng những thế hệ đời cuối 8x, 9x, 10x đã ngược lại hoàn toàn, số bỏ phố lên rừng làm trang trại, làm du lịch ngày càng nhiều.

Như ông chủ của vườn hoa Cao Sơn ở huyện miền núi biên giới Bình Liêu - người bỏ phố lên bản, tâm sự: Được sống ở làng giờ là VIP đấy chị ạ. Làm gì có mấy tỉnh mà “điện, đường, trường, trạm” nông thôn, miền núi lại đồng bộ, hiện đại chả khác gì thành thị như ở Quảng Ninh. Như ở Bình Liêu xe ô tô có thể xuyên khắp bản làng biên giới đón bình minh, hay ngắm chiều tà vùng biên viễn nhờ hệ thống giao thông kết nối đã phủ đủ 103 thôn, bản. Hay như ở vùng quê Việt Dân, An Sinh (TX Đông Triều) sẽ khiến người thành phố phải ngất ngây bởi sự trù phú, bởi màu xanh của cây na đặc sản phủ kín khắp các mảnh vườn, vạt đồi, xen giữa màu xanh của cây trái là những biệt thự 2, 3 tầng mái ngói đỏ tươi. Nghèo nhất, xa xôi nhất như xã Kỳ Thượng thuộc huyện Hoành Bồ trước đây, nay là TP Hạ Long, giờ cũng là nơi “hút” khách lãng du thích khám phá nhờ xe ô tô có thể chạy thẳng đến trung tâm xã, có thể dừng nghỉ ở bất kỳ đỉnh núi nào để ngắm nhìn cầu Bãi Cháy trong trời xanh, mây trắng…

Vườn hoa Cao Sơn, Bình Liêu.

Vườn hoa Cao Sơn, Bình Liêu.

Tâm sự của ông chủ vườn hoa Cao Sơn cũng là những trải nghiệm mà tôi đã có được sau hơn 20 năm chọn Quảng Ninh làm nơi lập nghiệp. Với những chuyến đi lên rừng, xuống biển ở “nước Việt Nam thu nhỏ” đã cho tôi cơ hội được đặt chân đến hầu hết những địa danh của Quảng Ninh, được dõi theo và nhìn thấy sự chuyển mình của mỗi miền quê, vùng đất. Niềm hạnh phúc lấp lánh trong ánh mắt mỗi người dân vùng đất phên dậu của đất nước trong đó có tôi đang tăng lên mỗi ngày và tỷ lệ thuận với những quyết sách, định hướng đúng đắn của tỉnh.

Đó là, những thôn, bản yên bình trải theo cung đường quanh co, uốn lượn dọc tuyến biên giới Việt - Trung từ Bình Liêu đến Móng Cái với câu chuyện di dân xây dựng kinh tế mới từ các chương trình định canh, định cư, 135, 196… Là sinh kế bền vững, giàu có từ rừng ở những thị tứ trù phú trên núi cao giữa thơm mát hương quế, hương hồi Quảng An, Quảng Lâm, Quảng Lợi (Đầm Hà), Phong Dụ, Đại Dực (Tiên Yên), trong thanh khiết của rừng trà hoa vàng ở núi rừng Lương Mông, Đạp Thanh, Thanh Lâm (Ba Chẽ)... Là lấp lánh niềm vui trên những chuyến tàu về nặng mẻ lưới biển khơi của ngư dân Vân Đồn, Quảng Yên. Là sự giàu có trong những “villa” của làng nông thôn mới được bao bọc bởi con đường hoa rực rỡ sắc màu ở xã kiểu mẫu Việt Dân (Đông Triều), vải chín sớm Phương Nam (Uông Bí). Là ánh mắt rưng rưng của lão ngư bám đảo Cô Tô khi điện lưới quốc gia thắp sáng đảo tiền tiêu...   

Vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội đã tiếp sức cho nhiều người dân huyện Ba Chẽ mạnh dạn làm giàu.

Vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội đã tiếp sức cho nhiều người dân huyện Ba Chẽ mạnh dạn làm giàu.

Ông Vũ Kiên Cường, Trưởng Ban dân tộc tỉnh, cho biết: Quảng Ninh nằm phía đông bắc của đất nước, là vùng đất phên dậu, với đặc thù là tỉnh duy nhất có cả đường biên giới trên biển, trên bộ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Với đặc thù tỉnh có trên 60% đơn vị hành chính cấp xã (109/177) là miền núi, biên giới, hải đảo. Đồng bào 22 dân tộc thiểu số chỉ chiếm 12,31% dân số toàn tỉnh, song lại cư trú trên 85% diện tích của tỉnh, chủ yếu ở địa bàn miền núi, hải đảo, biên giới khó khăn, nhưng có vị trí chiến lược trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Gần 50% dân số sống ở vùng nông thôn, miền núi, nhưng chỉ đóng góp 5,1% GRDP. Khoảng cách giữa 20% người giàu nhất với 20% người nghèo nhất trong tỉnh chênh lệch trên 8 lần. Đây là thách thức rất lớn giữa phát triển nhanh, bền vững, với gia tăng khoảng cách giàu nghèo và biến đổi khí hậu; giữa vừa phải phát triển KT-XH, vừa phải chủ động góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc.

Để có những “bức tranh muôn màu” hiện diện trên khắp các vùng quê, bên cạnh sự nỗ lực, chăm chỉ của những người nông dân chân chất, là sự chia sẻ, đồng hành của chính quyền các cấp thông qua những quyết sách “vì dân”. Câu chuyện bên lề của các đoàn công tác đến Quảng Ninh tìm hiểu kinh nghiệm phát triển KT-XH, xây dựng nông thôn mới, thường sẽ kết lại là “không bì được với Quảng Ninh, tỉnh giàu làm gì chả được!”. Tất nhiên không bì, không so sánh, nhưng cách làm của Quảng Ninh là những sáng tạo rất riêng có. 

Câu chuyện giảm nghèo và sự trăn trở thay đổi nếp nghĩ, tư duy của người nghèo luôn là vấn đề được bàn thảo nhiều nhất trong các cuộc họp của cấp ủy, chính quyền tỉnh Quảng Ninh những năm trước đây. Từ thực tế, Quảng Ninh nhận ra rằng, nếu không có nguồn lực đủ mạnh và cắt rễ tâm lý trông chờ, ỷ lại của đồng bào các dân tộc thì vòng luẩn quẩn thoát nghèo và tái nghèo sẽ vẫn lại tiếp diễn. Chính vì vậy, năm 2016, HĐND tỉnh đã xây dựng và ban hành một nghị quyết đặc thù, đó là Nghị quyết 50/2016/NQ-HĐND về phân bổ nguồn lực đưa các xã, thôn ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành Chương trình 135 giai đoạn 2017-2020.

Tỉnh quyết định bố trí trên 1.500 tỷ đồng từ nguồn ngân sách của tỉnh và các nguồn lồng ghép để đầu tư, nâng cấp hệ thống giao thông, các công trình thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học. Cùng với đó là hỗ trợ người dân phát triển các mô hình sản xuất, nâng cao thu nhập để giảm nghèo bền vững. Trên tinh thần của Nghị quyết 50/2016/NQ-HĐND, ngày 16/1/2017, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 196/QĐ-UBND phê duyệt đề án nhiệm vụ và giải pháp đưa các xã, thôn ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành chương trình 135 giai đoạn 2017-2020 (gọi tắt là Đề án 196). Đây là một đề án đặc biệt, sáng tạo, là cách làm riêng có của Quảng Ninh để cụ thể hóa mục tiêu xóa thôn, bản ĐBKK. 

Điện thoại thông minh đã trở thành vật dụng quen thuộc với đồng bào dân tộc thiểu số xã Quảng An, huyện Đầm Hà.

Điện thoại thông minh đã trở thành vật dụng quen thuộc với đồng bào dân tộc thiểu số xã Quảng An, huyện Đầm Hà.

Với mức đầu tư vượt trội, gấp 7 lần so với bình quân chung theo cơ chế Chương trình 135 của Trung ương, sau 3 năm triển khai, Đề án 196 của Quảng Ninh đã phát huy hiệu quả mạnh mẽ. Từ đề án này, công tác giảm nghèo đã có những chuyển biến tích cực, diện mạo nông thôn ở khu vực ĐBKK ngày càng khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Cuối năm 2019, toàn bộ các xã, thôn ĐBKK trên địa bàn tỉnh đã ra khỏi diện 135, về đích trước 1 năm so với mục tiêu đề ra. Một số xã, thôn vừa thoát khỏi diện ĐBKK, vừa hoàn thành chương trình xây dựng NTM. Gần 700 công trình điện, đường, trường, trạm… được đầu tư từ nguồn vốn của Đề án 196 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. 

Cũng trong 3 năm thực hiện đề án, đã có gần 8.400 lượt hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ để phát triển kinh tế. Mỗi công trình hoàn thành đã và đang tạo diện mạo mới cho vùng ĐBKK, cũng như tạo động lực để người dân thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm trong phát triển sản xuất. Đến hết năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh chỉ còn 0,14%. Đặc biệt hơn, đề án đã thay đổi căn bản nếp tư duy cũ trông chờ, ỷ lại của một bộ phận người dân, nhất là ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Người dân đã thấu hiểu, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước thì con đường thoát nghèo duy nhất là phải vươn lên, "khéo làm thì no, khéo co thì ấm".

Gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo an sinh, phúc lợi, tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách của địa phương; không chờ kinh tế phát triển rồi mới lo các vấn đề về xã hội, bằng hệ thống đồng bộ các giải pháp cụ thể, hiệu lực, hiệu quả - Đó là quan điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của tỉnh Quảng Ninh trên hành trình phát triển.

Bản Phạt Chỉ, xã Đồng Văn (huyện Bình Liêu) nằm ở độ cao 1.507m so với mực nước biển. Đây cũng là bản nằm sát đường biên giới, với 100% là đồng bào dân tộc Dao Thanh Phán sinh sống. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước thấy vùng đất mà dân bản đang sinh sống đất đai quá chật hẹp nên 6 hộ dân của bản đã di chuyển lên Phạt Chỉ khai hoang, dựng xây nhà cửa, khai khẩn đất đai, trồng trọt, chăn nuôi để sinh sống.

Được sự quan tâm của huyện, xã, đặc biệt là sự giúp đỡ của Lâm trường 155 - đơn vị đứng chân và làm nhiệm vụ kinh tế - quốc phòng trên địa bàn xã Đồng Văn, đến nay bản Phạt Chỉ đã có 35 hộ dân với 135 nhân khẩu sống quần tụ từ cột mốc 1326 đến cột mốc 1328. Những năm qua, bản Phạt Chỉ đã không ngừng thay da đổi thịt, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng lên; bản sắc văn hóa dân tộc luôn được giữ gìn và phát huy các giá trị nhân văn sâu sắc.

Mô hình trồng dưa lưới của huyện Đầm Hà.

Mô hình trồng dưa lưới của huyện Đầm Hà.

Anh Tằng Chi Thoòng một hộ dân ở bản cho biết: Nhà tôi có đàn dê trên 30 con, tôi chăn thả trên đồi dê phát triển rất tốt, việc tăng đàn rất thuận lợi. Các hộ khác cũng học tập gia đình tôi chăn nuôi dê như hộ anh Dường A Tài, hộ bác Tằng Vằn Làu ngoài đàn dê còn phát triển đàn trâu 8 con, đàn bò 6 con. Đến nay cả bản có khoảng 30ha rừng hồi sắp cho thu hoạch lứa quả đầu tiên. Các cháu đến tuổi đi học đều đến lớp đầy đủ. Học sinh học cấp 1 và cấp 2 được hưởng chế độ học bán trú nên bà con rất yên tâm khi đưa con ra trường học, góp phần giữ vững thành tích phổ cập giáo dục cho xã Đồng Văn. Người dân Phạt Chỉ một lòng tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, yên tâm nỗ lực phát triển kinh tế, xây dựng quê hương.

Cũng như bản Phạt Chỉ, bản Phai Lầu, tất cả các thôn, bản trên dọc tuyến biên giới Việt - Trung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đều đang bừng bừng sức sống thời kỳ đổi mới. “Nhân dân đã trao cho chúng ta chiếc vương miện của lòng tin, vì vậy cấp ủy, chính quyền phải thêm công, bù sức để vương miện đó phải là đá hoa cương, là cẩm thạch ngày càng tỏa sáng hơn nữa” - Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Xuân Ký khẳng định.

Tỉnh Quảng Ninh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đến người dân vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới - Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy trò chuyện với bà con cụm liên thôn Khe Lặc, Kéo Kai, Đoàn Kết, Khe Mươi và Nà Cam (xã Đại Dực, Tiên Yên).

Tỉnh Quảng Ninh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đến người dân vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới - Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy trò chuyện với bà con cụm liên thôn Khe Lặc, Kéo Kai, Đoàn Kết, Khe Mươi và Nà Cam (xã Đại Dực, Tiên Yên).

Trẻ em vùng đồng bào DTTS xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu được học tập, vui chơi trong môi trường tốt nhất.

Trẻ em vùng đồng bào DTTS xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu được học tập, vui chơi trong môi trường tốt nhất.

Nông thôn phát triển được một bậc thì đô thị sẽ tiến được 3-5 bậc, vậy đột phá nào để thu hẹp được chênh lệch vùng miền? “Thứ nhất, phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, bảo đảm liên thông, tổng thể, thúc đẩy liên kết vùng và nội vùng, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các mô hình sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Thứ hai, phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập ổn định cho lao động, nhất là lao động trẻ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Thứ ba, phát triển du lịch cộng đồng bền vững và thương mại biên giới ở những nơi có điều kiện” - Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Xuân Ký đã rất say sưa khi nói về 3 đột phá cốt lõi của Nghị quyết 06 ngày 17/5/2021 của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

Nhìn lại kết quả trong 10 năm qua của tỉnh Quảng Ninh thấy rằng, để có được những miền quê đáng sống, có được “vương miện lòng tin" của nhân dân, tỉnh đã đi đúng hướng trong giải vế sau của câu tục ngữ “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Với sự tập trung đầu tư toàn diện hạ tầng thiết yếu vùng đặc biệt khó khăn, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn và các hạ tầng phục vụ trực tiếp cho sinh hoạt, sản xuất như đưa điện lưới quốc gia đến 100% các thôn, bản vùng cao, biên giới và các đảo có dân cư sinh sống; khoảng 98% người dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh… Từ khi có điện lưới quốc gia ra đảo, Cô Tô từ một huyện nghèo đã trở thành huyện đảo nông thôn mới đầu tiên của cả nước, đến hết năm 2020 không còn hộ nghèo, GRDP bình quân đầu người đạt 5.000 USD.

Mô hình chăn nuôi dê thương phẩm của một hộ dân xã Điền Xá, huyện Tiên Yên cho thu nhập gần 100 triệu đồng/năm.

Mô hình chăn nuôi dê thương phẩm của một hộ dân xã Điền Xá, huyện Tiên Yên cho thu nhập gần 100 triệu đồng/năm.

Từ phương châm mọi người dân Quảng Ninh đều được hưởng thành quả phát triển, tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau, trong 5 năm (2016-2021), tỉnh đã ban hành 19 chính sách riêng có về an sinh, phúc lợi xã hội; tập trung vào các chính sách việc làm, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, đào tạo nghề, giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, bảo hiểm và cứu trợ, chăm lo nâng cao đời sống của những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi… Từ đó, đã khuyến khích người nghèo, người dân ở vùng khó khăn phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo và làm giàu, nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.

Tỉnh đã ưu tiên dành nguồn lực từ ngân sách chi cho sự nghiệp y tế, đầu tư cải tạo, nâng cấp hoàn thiện các cơ sở y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, tập trung rà soát, sắp xếp hệ thống y tế theo hướng tinh gọn, hiệu quả (Trạm y tế tuyến xã theo 3 mô hình; các trung tâm y tế cấp huyện) tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, nhất là cho người nghèo, đối tượng khó khăn. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%, riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn tỷ lệ này là 100%. Phát triển mạnh y tế dự phòng, nâng cao hiệu quả năng lực dự báo, phát hiện, kiểm soát và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19.

Riêng đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo hệ thống cơ sở vật chất được nâng cấp theo hướng đồng bộ, hiện đại, từng bước phát triển mô hình giáo dục thông minh với 85% số trường đạt chuẩn quốc gia. Tỉnh chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số, xem đó là yếu tố cần thiết mang tính chiến lược để tăng cường năng lực nội sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần tăng tỷ lệ cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số nhiệm kỳ 2020-2025 ở các cấp.

Để kích thích sản xuất, tỉnh lựa chọn được các sản phẩm đặc trưng của các vùng miền, ưu tiên nguồn lực, xây dựng mô hình phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập, vươn lên thoát nghèo, làm giàu theo hướng người dân là chủ thể của Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) gắn kết với việc triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn, giảm nghèo bền vững, đưa 17 xã, 54 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn sớm hơn 1 năm và 91% xã đạt chuẩn nông thôn mới, xã Việt Dân (TX Đông Triều) đạt nông thôn mới kiểu mẫu đầu tiên trong cả nước.

Chú trọng xây dựng và triển khai các chính sách phù hợp để phát huy vai trò của vùng khó khăn đối với tăng trưởng kinh tế. Trong đó, đặc biệt ưu tiên cơ chế, chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, nhất là văn hóa các dân tộc thiểu số thực sự trở thành nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững; thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa ở các huyện miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các sản phẩm văn hóa đặc trưng vùng miền để phục vụ phát triển du lịch, tạo sinh kế, thu nhập cho người dân.

Người dân huyện Hải Hà thu hoạch chè.

Người dân huyện Hải Hà thu hoạch chè.

Như lời cam kết, lời hứa với nhân dân, cử tri ở vùng phên dậu của đất nước, trên hành trình phát triển tỉnh Quảng Ninh không để ai bị bỏ lại phía sau, mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả phát triển của tỉnh, trong giai đoạn 2021-2025, Quảng Ninh sẽ dành khoảng 4.200 tỷ đồng, gồm vốn ngân sách tỉnh 2.500 tỷ đồng, vốn ngân sách huyện 1.500 tỷ đồng, vốn huy động hợp pháp khác 200 tỷ đồng để đầu tư hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng người dân khu vực này. Căn cứ nguồn vốn được duyệt, đến nay UBND tỉnh đã xây dựng được kế hoạch, lộ trình đầu tư 101 công trình hạ tầng động lực, thiết yếu tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Trong đó có 26 công trình giao thông, 30 công trình thủy lợi, 15 công trình giáo dục, 6 công trình y tế, 10 công trình văn hóa, 2 công trình chợ thương mại, 12 công trình nước sinh hoạt.

Quảng Ninh hôm nay hiện đại, quy củ, ngăn nắp, sạch sẽ, là nơi giao thoa vẻ đẹp thiên nhiên, con người, văn hóa trong xu thế hội nhập và phát triển. Đô thị xanh, sạch đẹp, nông thôn, miền núi, hải đảo là những miền quê đáng sống. Kinh tế - xã hội phát triển đột phá, đạt được những thành tựu toàn diện, là một địa phương luôn nằm trong top dẫn đầu của cả nước, với mức tăng trưởng GRDP trong 10 năm qua luôn đạt trên 10%. GRDP bình quân đầu người đã đạt trên 6.700 USD, gấp hơn 2 lần bình quân chung cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều giảm từ 4,56% năm 2015 xuống còn 0,36% năm 2021; khu vực nông thôn giảm xuống còn khoảng 1%. Chính trị ổn định, xã hội kỷ cương, an ninh, an toàn, văn minh, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, chủ quyền biên giới, biển đảo quốc gia được giữ vững, không để xảy ra các tình huống bị động, bất ngờ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển. Ứng phó có hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là dịch bệnh, thiên tai. Đó là những điều kiện tiên quyết để tỉnh tiếp tục hiện thực hóa những ý tưởng, khát vọng lớn trở thành một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc.

Lan Hương - Nguyên Ngọc
Trình bày: Hùng Sơn