“Mọi người dân Quảng Ninh đều được hưởng thành quả phát triển, tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau” đã trở thành phương châm hành động quyết liệt từ tỉnh, huyện đến cơ sở với mục tiêu cao nhất “Vì hạnh phúc của nhân dân”. Với quyết tâm lớn, nỗ lực, cùng sự kiên trì của cả hệ thống chính trị, với những chính sách, nghị quyết hợp lòng dân, vì nhân dân đã và đang dẫn đường, làm bàn đạp quan trọng để thay đổi diện mạo khu vực khó, vùng đồng bào DTTS. Đồng thời, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên thoát nghèo, tạo dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, góp phần xây dựng Quảng Ninh giàu đẹp, văn minh.

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, tỉnh Quảng Ninh luôn dành sự quan tâm rất lớn cho công tác giảm nghèo, nhất là ở khu vực đồng bào DTTS. Đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg (ngày 2/9/2016) phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 và Quyết định số 1258/QĐ-TTg (ngày 21/8/2017) về việc ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện các mục tiêu giảm nghèo theo từng giai đoạn, bảo đảm đồng bộ, thiết thực, khơi dậy ý chí vươn lên của người nghèo, huy động sự tham gia của cả cộng đồng giúp đỡ các hộ thoát nghèo bền vững.

Những chủ trương, chính sách vì dân, lấy người dân làm trung tâm, khoa học, sáng tạo, căn cơ, bài bản, mang tính chiến lược lâu dài được ban hành kịp thời. Rõ nét nhất, ngay từ đầu nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU (ngày 27/10/2010) về Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) - Nghị quyết đầu tiên và chuyên biệt về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó lấy việc xây dựng NTM làm then chốt. Nghị quyết xác định chủ thể chính xây dựng NTM là nông dân; phương châm dựa vào nội lực của cộng đồng dân cư, mọi việc phải đảm bảo dân biết, dân bàn, dân làm và dân được hưởng thụ.

Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh tặng quà cho các bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số xã biên giới huyện Bình Liêu.

Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh tặng quà cho các bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số xã biên giới huyện Bình Liêu.

Chương trình xây dựng NTM đã được triển khai đồng bộ ở 125/125 xã, 13 đơn vị cấp huyện trong toàn tỉnh, chứ không làm điểm, làm nhỏ lẻ như các địa phương khác. Cũng chính việc triển khai đồng bộ nên cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho tỉnh, nhất là nguồn lực thực hiện.

Để tháo gỡ khó khăn, Quảng Ninh đã thực hiện nhiều chính sách riêng có, huy động các nguồn lực đầu tư toàn xã hội nhằm thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng NTM. Tổng nguồn lực huy động xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020 là gần 173.000 tỷ đồng (bình quân ngân sách tỉnh hỗ trợ 357,8 tỷ đồng/năm). Giai đoạn 2021-2022, tổng nguồn lực huy động triển khai xây dựng NTM là trên 60.800 tỷ đồng (bình quân ngân sách tỉnh hỗ trợ 703 tỷ đồng/năm).

Hơn 10 năm qua, “làn gió” xây dựng NTM đã tràn về các vùng miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng khó của Quảng Ninh; tạo nên sự đổi mới, tiến bộ trong cả nhận thức và hành động từ cán bộ đến người dân. Đây là nền tảng vững chắc, góp phần vào kết quả tích cực trong công tác giảm nghèo của tỉnh suốt thời gian qua.

Đồng chí Cao Tường Huy, Chủ tịch UBND tỉnh, trò chuyện cùng với các hộ dân thôn Sú Cáu, xã Húc Động.

Đồng chí Cao Tường Huy, Chủ tịch UBND tỉnh, trò chuyện cùng với các hộ dân thôn Sú Cáu, xã Húc Động.

Tiếp đó, đề án “Nhiệm vụ và giải pháp đưa các xã, thôn ra khỏi diện ĐBKK, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” (Đề án 196) được ban hành ngày 17/1/2017. Đây cũng là chủ trương, cách làm riêng có của Quảng Ninh nhằm tăng cường, ưu tiên nguồn lực đầu tư cho vùng khó.

Theo đó, tỉnh đã huy động và bố trí nguồn lực đầu tư cho các xã, thôn ĐBKK cao hơn nhiều so với mức của Trung ương. Cụ thể, Trung ương quy định bình quân 1,5 tỷ đồng/xã ĐBKK, nhưng Đề án 196 của tỉnh đã bố trí bình quân mỗi xã 10 tỷ đồng. Việc bố trí vốn linh hoạt dựa vào tình hình thực tế của mỗi xã, thôn chứ không mang tính “cào bằng”. Với sự hỗ trợ đó, kết cấu hạ tầng KT-XH và nhận thức của người dân tại các khu vực nông thôn, miền núi, biên giới và địa bàn ĐBKK đã thay đổi mạnh mẽ.

Tiếp nối Chương trình 135, Đề án 196, từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết 06-NQ/TU (ngày 17/5/2021) về phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo đảm vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh tăng tối thiểu 2 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3%/năm; không còn nhà tạm, nhà ở dột nát; cơ bản giải quyết dứt điểm nhu cầu cấp thiết về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, gia cảnh khó khăn...

Đại biểu HĐND tỉnh biểu quyết thông qua Nghị quyết về quy định chính sách trợ giúp pháp lý tại các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2022-2025.

Đại biểu HĐND tỉnh biểu quyết thông qua Nghị quyết về quy định chính sách trợ giúp pháp lý tại các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2022-2025.

Để sớm hiện thực hóa các mục tiêu, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết 16/2021/NQ-HĐND phê duyệt chương trình tổng thể phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo đảm vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, xác định tổng nguồn vốn thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU giai đoạn 2021-2025 tối thiểu 4.200 tỷ đồng. Trên cơ sở đó, 101 công trình hạ tầng động lực về giao thông, y tế, giáo dục... tại các địa phương có đông đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đã được xác định lộ trình thực hiện.

Đặc biệt, từ đầu năm 2023 đến nay, Quảng Ninh triển khai mạnh mẽ các chính sách hỗ trợ giáo dục vùng cao, vùng khó. Hơn 2.100 lượt học sinh đã được hỗ trợ học phí (tổng kinh phí trên 10 tỷ đồng); 3.171 lượt trẻ mầm non được hỗ trợ tiền ăn 2 buổi/ngày (gần 3 tỷ đồng). Đây thực sự là những nghị quyết của “Ý Đảng - Lòng dân”, minh chứng cho sức mạnh, trí tuệ, trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền tỉnh trong việc nỗ lực tiếp sức, mở ra cơ hội phát triển nhanh, toàn diện, bền vững cho vùng đồng bào DTTS, miền núi, hải đảo trên địa bàn.

Các em học sinh vùng cao được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng dạy và học, ảnh tại Trường Mầm non Đồng Lâm, TP Hạ Long.

Các em học sinh vùng cao được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng dạy và học, ảnh tại Trường Mầm non Đồng Lâm, TP Hạ Long.

Ông Lý Tài Thông (nguời có uy tín tiêu biểu xã Tân Dân, TP Hạ Long), chia sẻ: Những nguồn lực đầu tư, hỗ trợ đúng cách của tỉnh trong những năm gần đây, từ Chương trình 135, Đề án 196, xây dựng NTM, đặc biệt phải kể đến Nghị quyết 06-NQ/TU đã khẳng định tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, lo lắng trước những khó khăn của người dân vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Các chủ trương, nghị quyết đi vào cuộc sống đã đáp ứng mong mỏi, kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân, là động lực khuyến khích đồng bào DTTS vươn lên chung tay thi đua phát triển sản xuất, không còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước như trước kia. Bà con ngày càng tin tưởng, kỳ vọng vào những quyết sách của Đảng, của chính quyền và quyết tâm chung tay, đồng lòng thực hiện.

Những con đường liên thôn, bản được đầu tư to đẹp tại huyện miền núi Bình Liêu.

Những con đường liên thôn, bản được đầu tư to đẹp tại huyện miền núi Bình Liêu.

Ngoài những chủ trương, chính sách nói trên còn có rất nhiều nghị quyết được ban hành để huy động sự tham gia của cả cộng đồng thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Có thể kể đến như Nghị quyết 07-NQ/TU (ngày 29/5/2013) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong sự nghiệp phát triển KT-XH nhanh, bền vững, gắn với bảo vệ vững chắc QP-AN tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết 19-NQ/TU (ngày 28/11/2019) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Quảng Ninh đến 2025, tầm nhìn đến 2030...

Đặc biệt, một nội dung của chủ đề công tác năm 2023 được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định là “Nâng cao chất lượng đời sống nhân dân” đã càng cho thấy quyết tâm của tỉnh trong việc chăm lo đời sống nhân dân, nhất là nhóm đối tượng yếu thế, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, để mỗi người dân đều được hưởng thành quả tăng trưởng bao trùm, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

Hơn 10 năm qua, hàng loạt chính sách giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở tất cả các cấp với nguồn kinh phí huy động từ Trung ương, địa phương, cộng đồng và các tổ chức xã hội đã làm thay đổi diện mạo ở tất cả các vùng miền trong toàn tỉnh, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS.

“Quảng Ninh đã có nhiều cách làm sáng tạo, cụ thể, năng động và quyết tâm quyết liệt và không phải địa phương nào cũng triển khai đồng bộ, thống nhất nhiều biện pháp như Quảng Ninh trong công tác giảm nghèo, nhất là giảm nghèo khu vực DTTS. Nguồn ngân sách xã hội và huy động từ các nguồn khác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn đầu tư ở tất cả các chương trình mục tiêu quốc gia. Quảng Ninh đã trở thành điểm sáng nhất cả nước về giảm nghèo, mang về cho vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS những giá trị mới, nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân”. 
Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh

“Mọi người dân Quảng Ninh đều được hưởng thành quả phát triển, tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau” - đây không chỉ là khẩu hiệu, mà Quảng Ninh còn hiện thực hóa tư tưởng “vì nhân dân” thành những hành động cụ thể, thiết thực. Các giải pháp được xây dựng đều dựa vào 3 trụ cột: Thiên nhiên, con người, văn hóa, để phát triển; gắn với tạo đột phá về phát triển kinh tế hạ tầng, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân như về giao thông, thủy lợi, nước sạch, đất đai, y tế, giáo dục.

Hạ tầng giao thông chính là “nút thắt” đầu tiên trong quá trình phát triển, tạo tiền đề xóa nghèo bền vững ở khu vực đồng bào DTTS mà Quảng Ninh đã sớm nhận định và tìm cách tháo gỡ. Chính vì vậy, không chỉ riêng khu vực trung tâm, thành thị, ở các địa bàn vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, tỉnh đã và đang tập trung các nguồn lực để cải thiện hạ tầng giao thông.

Nhân dân thôn Tân Tiên, xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ chỉnh sang diện mạo thôn chuẩn bị đón Tết Nguyên đán 2024.

Nhân dân thôn Tân Tiên, xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ chỉnh sang diện mạo thôn chuẩn bị đón Tết Nguyên đán 2024.

Trong 10 năm qua, từ các nguồn vốn của Chương trình 135, Đề án 196 và Chương trình xây dựng NTM, Quảng Ninh đã tập trung đầu tư, nâng cấp hàng nghìn công trình giao thông nông thôn. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH được đầu tư, xây dựng mới đồng bộ kết nối giữa các xã với trung tâm huyện, kết nối huyện với các đô thị của tỉnh; các trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc, các thiết chế văn hoá, thể thao... được đầu tư đồng bộ hiện đại. Đến nay, 100% xã thuộc khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh đều có đường bê tông khang trang, sạch đẹp, thuận lợi cho đi lại, giao thương, phát triển sản xuất.

Diện mạo nông thôn xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ ngày càng khởi sắc.

Diện mạo nông thôn xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ ngày càng khởi sắc.

Gia đình bà Chíu Nhì Múi, thôn Sông Moóc, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu phấn khởi khi được đón Tết Nguyên đán 2024 trong ngôi nhà mới nhờ chương trình xóa nhà ở tạm, nhà ở dột nát.

Gia đình bà Chíu Nhì Múi, thôn Sông Moóc, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu phấn khởi khi được đón Tết Nguyên đán 2024 trong ngôi nhà mới nhờ chương trình xóa nhà ở tạm, nhà ở dột nát.

Hơn 10 năm kiên trì giảm nghèo vùng đồng bào DTTS, miền núi, hải đảo, tỉnh Quảng Ninh đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho người dân về tinh thần phát huy nội lực, tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, từng bước xóa bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.

Đặc biệt, tỉnh đã chỉ đạo triển khai những giải pháp hữu hiệu trên các phương diện, tạo động lực cho nhân dân vùng khó vươn lên thoát nghèo, như: Hỗ trợ nhà ở; tạo sinh kế thông qua các mô hình kinh tế hiệu quả, nhất là các mô hình phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển sản phẩm OCOP, du lịch cộng đồng từ bản sắc văn hóa của địa phương; vốn vay tín dụng ưu đãi...

Để đảm bảo công tác giảm nghèo bền vững, Quảng Ninh luôn kiên trì với phương châm chuyển từ “cho không” sang “cho vay”, vừa tạo nguồn lực cho người dân phát triển sản xuất, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc sử dụng vốn. Giai đoạn 2021-2023, tỉnh bố trí 240 tỷ đồng từ ngân sách ủy thác qua Ngân hàng CSXH thực hiện cho vay tại 65 xã, thị trấn vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Toàn tỉnh đã có 3.475 lượt người dân tại các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo vay vốn với số tiền 258,5 tỷ đồng để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổng nguồn ủy thác tại địa phương đến nay đạt 1.025 tỷ đồng, đưa Quảng Ninh trở thành địa phương top đầu cả nước về nguồn vốn ủy thác.

Ba Chẽ khuyến khích, hỗ trợ nhân dân triển khai mô hình nuôi bò sinh sản bước đầu đạt kết quả tích cực.

Ba Chẽ khuyến khích, hỗ trợ nhân dân triển khai mô hình nuôi bò sinh sản bước đầu đạt kết quả tích cực.

Tỉnh cũng chỉ đạo Sở NN&PTNT thực hiện các mục tiêu về phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư; tổ chức lại sản xuất vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, gia tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ gắn với phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa...

Từ đây, nỗ lực thoát nghèo không chỉ là ý chí của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, mà đã trở thành suy nghĩ của từng hộ nghèo trên địa bàn tỉnh. Tại các địa phương trong toàn tỉnh hiện nay không khó để tìm thấy những mô hình phát triển kinh tế hiệu quả của đồng bào DTTS. Họ không thụ động trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, mà năng động, sáng tạo, chủ động tìm sinh kế mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương vươn lên thoát nghèo và làm giàu chính đáng.

Từng là một trong những địa phương khó khăn của huyện Ba Chẽ, xã Đồn Đạc nay đã mang diện mạo mới. Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Đồn Đạc Lưu Minh Thắng cho biết: Được sự quan tâm, hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh về thực hiện giảm nghèo bền vững, Đồn Đạc đã rà soát, huy động để hỗ trợ nhân dân, nhất là các hộ nghèo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế, tập trung phát triển mô hình trồng cây gỗ lớn, cây dược liệu để tạo ra sinh kế bền vững. Nhiều người dân đã mạnh dạn vay vốn, phát triển mô hình lâm nghiệp, vươn lên thoát nghèo. Đến nay, Đồn Đạc không còn hộ nghèo theo tiêu chí của Trung ương, thu nhập bình quân đầu người năm 2023 đạt trên 64 triệu đồng, tăng 18 triệu đồng so với năm 2020.

Anh Đặng A Năm (bên trái), thôn Tàu Tiên, xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, từ hộ nghèo đã nỗ lực vươn lên thoát nghèo, làm giàu từ mô hình trồng cây gỗ lớn.

Anh Đặng A Năm (bên trái), thôn Tàu Tiên, xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, từ hộ nghèo đã nỗ lực vươn lên thoát nghèo, làm giàu từ mô hình trồng cây gỗ lớn.

Gia đình anh Đặng A Năm (thôn Tàu Tiên, xã Đồn Đạc) hơn chục năm trước là hộ nghèo trên địa bàn, đời sống vô cùng khó khăn, chỉ lo cơm gạo từng ngày, nhưng nay không chỉ thoát nghèo, anh Năm còn vươn lên làm giàu từ mô hình trồng cây gỗ lớn. Vạt đồi trồng giổi hơn 1ha xanh mướt tầm mắt của gia đình anh Năm đã chứng minh cho tinh thần vươn lên mạnh mẽ của người dân nơi đây.

Anh Năm bộc bạch: Trước đây, vợ chồng tôi không có công việc ổn định, ai thuê gì làm nấy, chủ yếu là trông chờ vào trợ cấp của Nhà nước cho hộ nghèo. Từ sự động viên, hỗ trợ của các cấp chính quyền, cùng với việc thấy nhiều bà con thoát được cái nghèo, chúng tôi nghĩ mình phải thay đổi tư duy, phải tự lực vươn lên. Bởi vậy, khi được xã giao đất để trồng cây gỗ lớn, gia đình tôi đã đăng ký và đến nay đã trồng được hơn 1ha cây giổi kết hợp chăn nuôi nhỏ. Kinh tế gia đình đã ổn định hơn, thu nhập mỗi năm đạt khoảng 60 triệu đồng, gia đình tôi đã thoát được nghèo.

Hơn 1ha diện tích trồng giổi và cây mây của gia đình Anh Đặng A Năm.

Hơn 1ha diện tích trồng giổi và cây mây của gia đình Anh Đặng A Năm.

Cùng với tạo nguồn lực cho người dân phát triển sản xuất, tỉnh cũng quan tâm phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, trọng tâm là đào tạo nghề cho lao động trẻ để chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu nông thôn gắn với tạo việc làm, tăng thu nhập; xây dựng đội ngũ CBCCVC là người DTTS và người công tác tại vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT-XH.

Là cán bộ người DTTS ở xã biên giới, Phó Chủ tịch UBND xã Hải Sơn (TP Móng Cái) Sẻn Thị Hỷ luôn trăn trở làm như thế nào để thay đổi được nhận thức của đồng bào DTTS, giúp bà con thoát được tư tưởng trông chờ, ỷ lại, vươn lên thoát nghèo. Chị Hỷ tâm sự: Thay đổi quá trình nhận thức, tư duy sinh hoạt, phát triển sản xuất của người dân là cả một quá trình dài, đòi hỏi mỗi cán bộ địa phương phải sâu sát, hiểu người dân cần gì, mong muốn gì. Bởi vậy, cấp ủy, chính quyền địa phương đã tập trung nghiên cứu, đưa ra giải pháp chiều sâu, lâu dài, vận động, tuyên truyền, thay đổi tư duy thoát nghèo cho người dân; xác định nhu cầu hỗ trợ của từng hộ để phát triển sản xuất và từng bước thoát nghèo; huy động sự tham gia của hộ nghèo trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện các dự án, chính sách giảm nghèo để mỗi chương trình triển khai thật sự ý nghĩa, hiệu quả lâu dài.

Chị Sẻn Thị Hỷ, Phó Chủ tịch UBND xã Hải Sơn, TP Móng Cái trò chuyện, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của bà con nhân dân trên địa bàn.

Chị Sẻn Thị Hỷ, Phó Chủ tịch UBND xã Hải Sơn, TP Móng Cái trò chuyện, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của bà con nhân dân trên địa bàn.

Hành trình thoát nghèo với phương châm “lấy nhân dân làm trung tâm, mọi chủ trương, chính sách xuất phát từ nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân” đã thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, nhân lên niềm tin của nhân dân với Đảng. Với niềm tin và khát vọng thoát nghèo, tin tưởng vào cuộc sống mới, bà con vùng khó, vùng đồng bào DTTS đã và đang nỗ lực từng ngày, phát huy nội lực không chỉ thoát nghèo bền vững, mà còn vươn lên làm giàu trên chính quê hương mình, vun đắp xây dựng Quảng Ninh phát triển bền vững.

Niềm vui mùa thu hoạch quế của người dân tộc Sán Chỉ (huyện Bình Liêu). Ảnh: Khánh Giang

Niềm vui mùa thu hoạch quế của người dân tộc Sán Chỉ (huyện Bình Liêu). Ảnh: Khánh Giang

Ngày đăng: 23/1/2024
Thực hiện: LƯU LINH
Trình bày: ĐỖ QUANG