Ngày 23/3/2024 là một ngày không thể nào quên của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân huyện Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, đó là sự kiện Huyện đảo tròn 30 năm xây dựng và phát triển. Khoảng thời gian 30 năm không phải là dài, nhưng cũng không ngắn, đủ để một con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Giờ đây, sau 30 năm đó huyện Cô Tô đã có những bước đi vững chắc trên vùng biển, đảo Đông Bắc đầy gió, sóng và đã trưởng thành hơn cả mong đợi.

Cô Tô là huyện đảo tiền tiêu, biên giới nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh; có đường biên giới biển trên 100km, trải dài từ thành phố Móng Cái đến tiếp giáp với huyện đảo Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng; có diện tích phần đất nổi trên 53,68km2, gồm 74 đảo; sở hữu vùng biển, ngư trường rộng trên 300km². Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, với vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng, Cô Tô đã trở thành “phên dậu” của Tổ quốc, đóng vai trò chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ, là tiền đồn, cứ địa, là chắn thép nhiều tầng, lớp bảo vệ cửa ngõ phía Bắc.

Diện mạo Cô Tô không ngừng đổi thay.

Diện mạo Cô Tô không ngừng đổi thay.

Diện mạo Cô Tô không ngừng đổi thay.

Ngày 9/5/1961, quân và dân đảo Cô Tô vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh ra thăm. Cô Tô là địa danh duy nhất trong cả nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép dựng tượng Người lúc sinh thời. Sự kiện Bác Hồ ra thăm đảo và tượng đài của Người hiện diện trên vùng biển đảo Cô Tô thể hiện tầm nhìn xa rộng, tư duy chiến lược, sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, vị thế của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tượng đài của Người là hồn thiêng sông núi, dấu mốc lịch sử, khẳng định chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Việt Nam trên Biển Đông.

Huyện đảo Cô Tô nhìn từ biển năm 1994.

Huyện đảo Cô Tô nhìn từ biển năm 1994.

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Cô Tô luôn khắc ghi và thực hiện lời căn dặn của Bác, kiên định, vững tâm bám biển, giữ đảo, xây dựng và phát triển huyện đảo giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh.

Quay trở lại thời gian cách đây 30 năm, Cô Tô khi đó còn rất nghèo và hoang sơ, với dân số vẻn vẹn khoảng 2.000 người, nhà cửa lụp xụp thưa thớt, cả huyện không có một ngôi nhà tầng nào. Khi màn đêm đổ xuống, Cô Tô như một ốc đảo chỉ le lói ánh đèn, mang đến nỗi buồn, làm nản lòng bất cứ ai ở xa ra đảo.

Từ đó đến nay, Đảng bộ huyện Cô Tô đã trải qua sáu nhiệm kỳ đại hội, xác định Cô Tô là nơi xuất phát điểm thấp, hạ tầng gần như không có gì, không có điện, nước ngọt hạn chế, giao thông cực kỳ khó khăn. Người dân khám chữa bệnh chủ yếu nhờ quân y hỗ trợ, không có trạm y tế, không có nhà văn hóa, học sinh học hết cấp 2 phải vào đất liền ở nội trú để học tiếp cấp 3. Trước năm 2013, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân thấp nhất trong toàn tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của Cô Tô vẫn còn đến gần 10%. Vì vậy, Đảng bộ, chính quyền huyện Cô Tô đã nhận định phải tháo gỡ được nút thắt về giao thông, nước ngọt và điện. Đây là điều kiện tiên quyết để huyện Cô Tô giữ ổn định tình hình và tạo ra bứt phá để phát triển.

Ngày 19/7/1994, những cán bộ huyện đầu tiên gồm 17 đồng chí được tỉnh điều động ra đảo Cô Tô công tác trên một con tàu gỗ, sau hơn 5 giờ lênh đênh di chuyển từ đất liền. Việc đi lại giữa đảo và đất liền khi ấy gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khi thời tiết xấu. Mỗi tuần chỉ có 2 chuyến tàu gỗ ra và về, tàu chở khách kèm theo hàng hóa, lương thực, thực phẩm, thư báo, có nhiều hôm chở thêm cả gia súc, gia cầm. Những lúc sóng to nước tràn cả vào khoang tàu, mọi người đều ướt hết, hàng hóa, thư báo cũng dính đầy nước mặn.

Khi đó huyện Cô Tô còn chưa có cảng cập tàu, các chuyến tàu ra đảo đều đỗ ở bãi biển trước tượng Bác. Tàu ra đến nơi là cả bộ đội và nhân dân cùng xắn quần lội ra biển để nhanh chóng bốc dỡ hàng hóa lên bờ cho an toàn, bãi biển và đường mòn toàn cát nóng làm chân ai cũng bỏng rộp.

Trăn trở để tìm hướng giải quyết khó khăn trên, tập thể lãnh đạo huyện đã họp bàn và thống nhất chủ trương phải sớm xây dựng cầu cảng ở những đảo lớn. Phải kêu gọi, thu hút thêm tư nhân đóng những tàu khách có sức chở lớn, thời gian di chuyển nhanh từ đất liền ra Cô Tô. Phải mở rộng và làm đường bê tông các tuyến đường xuyên đảo. Ngày ấy chưa có xe điện nhưng cũng đã bàn đến việc phải hạn chế tối đa xe ô tô chạy xăng dầu trên đảo để giữ môi trường. Những chủ trương đúng đắn cùng với việc vận hành quyết liệt đã làm bộ mặt huyện Cô Tô đổi thay nhanh chóng.

Lễ khởi công cảng Cô Tô ngày 22/4/1997.

Lễ khởi công cảng Cô Tô ngày 22/4/1997.

Tháng 4/1997, huyện khởi công cầu cảng Cô Tô và hoàn thành gần 3 năm sau đó. Các bến cảng Thanh Lân, bến cập tàu Bưu điện cũ cũng đã được triển khai, các tuyến đường xuyên đảo, liên thôn, liên xóm cũng đã được đầu tư mở rộng và đổ bê tông. Nhân dân tự nguyện hiến, trả đất mở rộng các tuyến đường ngõ xóm để xóa dần những con ngõ tối tăm, chật hẹp, lầy lội.

Cầu cảng Cô Tô- đầu mối nối đất liền với đảo ngọc.

Cầu cảng Cô Tô - đầu mối nối đất liền với đảo ngọc.

Cầu cảng Cô Tô - đầu mối nối đất liền với đảo ngọc.

Từ năm 2001, huyện đã kêu gọi được tư nhân đóng thêm 3 tàu gỗ có sức chở lớn, thời gian di chuyển ra đảo rút ngắn còn 4 giờ. Đến năm 2006, đã phát triển được tàu cao tốc tư nhân có sức chở 120 khách, thời gian từ đất liền ra đảo chỉ còn 1,5 giờ. Đến nay đã có trên 30 con tàu cao tốc các loại kết nối các bến cảng Ao Tiên, Cái Rồng (Vân Đồn), Tuần Châu (Hạ Long), Vũng Đục (Cẩm Phả) đến Cô Tô. Tháng 7/2023, tuyến bay thương mại bằng thủy phi cơ kết nối từ đảo Tuần Châu, thành phố Hạ Long ra Cô Tô đã chính thức khai thác chở khách du lịch với thời gian chưa đến 20 phút bay. Nhân dân, cán bộ đi công tác, học tập, khám chữa bệnh được đi về trong ngày, khách du lịch ra đảo ngày một đông hơn.

Con đường Tình yêu - một điểm đến thú vị và vô cùng lãng mạn.

Con đường Tình yêu - một điểm đến thú vị và vô cùng lãng mạn.

Đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ là yếu tố quan trọng để du lịch Cô Tô phát triển.

Đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ là yếu tố quan trọng để du lịch Cô Tô phát triển.

Do đặc điểm của huyện đảo không có nguồn nước tự nhiên về sông suối và nguồn nước sinh thủy nên trước đây nước sinh hoạt và sản xuất của người dân cả huyện Cô Tô phụ thuộc hoàn toàn vào vài hồ nước ngọt và giếng đào cũ. Với đặc thù hằng năm có 4/12 tháng có mưa; lượng mưa bình quân trên đảo rất thấp cộng với nắng hạn cũng đồng nghĩa với các hồ, giếng nước khô hạn hoặc nhiễm mặn, cứ đến mùa khô và nắng nóng dài ngày là toàn huyện đảo thiếu nước sinh hoạt trầm trọng.

Thời điểm mới thành lập huyện, có những năm Cô Tô là “đảo khát”, cả huyện đảo chỉ còn vài hồ nước trơ cạn gần đến đáy. Có những ngày phải sử dụng xe công nông lót vải bạt lên thùng xe để đựng nước gạn từ các giếng đào và đáy hồ nước ngọt, sau đó dùng phèn, hóa chất để lắng lọc. Mỗi người cũng chỉ dám dùng 7-15 lít/ngày cho tất cả sinh hoạt và phải tái sử dụng để vệ sinh hoặc tưới cây.

Cán bộ huyện đã đi đến từng nhà, hỏi những người sinh sống lâu năm trên đảo để tìm nguồn nước ngọt, đã đi khắp các cánh rừng trên đảo để tìm những dấu tích của khe, suối có thể thu nước, tuyên truyền cho nhân dân bảo vệ rừng tự nhiên để giữ nguồn nước ngọt. Cho đến nay, Cô Tô vẫn là địa phương duy nhất trong tỉnh không giao đất, giao rừng sản xuất và giữ được tỷ lệ che phủ rừng tự nhiên trên 60% diện tích đảo.

Hồ chứa nước Trường Xuân (Cô Tô).

Hồ chứa nước Trường Xuân (Cô Tô).

Qua đó, huyện đã từng bước hoàn thành việc quy hoạch, cải tạo, xây mới tất cả 23 hồ chứa nước trên các đảo, dung tích khoảng 1,5 triệu m3, nếu lượng mưa ổn định có thể đảm bảo cung cấp đầy đủ nước ngọt sinh hoạt cho nhân dân và khách du lịch trong mùa cao điểm nhất. Cho đến nay, cơ bản đã không còn khó khăn nhiều về nguồn nước ngọt như xưa, sau khi hồ Trường Xuân, hồ C4 mở rộng, tới đây là hồ C22 và các hồ nước ngọt khác theo Đề án an ninh nguồn nước ngọt của tỉnh Quảng Ninh hoàn thành, Cô Tô sẽ không còn là “đảo khát” như trước đây.

Những ngày đầu mới thành lập huyện, chỉ có số ít các hộ dân ở đảo kinh tế khá giả mới có điều kiện mua máy phát điện nhỏ, chủ yếu là dùng cho kinh doanh bán hàng, trẻ em phải tranh thủ học bài ban ngày hoặc thắp đèn dầu vào buổi tối để học.

Những năm 2000 - 2003, trên đảo Cô Tô lớn được tỉnh quan tâm đầu tư 2 cụm máy phát điện cho các cơ quan và hộ dân khu vực trung tâm huyện. Thời gian phát điện nâng dần lên 4h rồi 15h - 20h/ngày với giá điện từ 18.000 - 25.000 đồng/kw điện chưa có trợ giá. Các khu vực xa trung tâm và xã đảo Thanh Lân vẫn dùng điện máy nổ theo cụm gia đình 3-10 hộ.

Ngành điện lực đã triển khai thử nghiệm nhiều nguồn điện bổ sung như năng lượng mặt trời, điện gió, đã tính đến cả phương án xây nhà máy nhiệt điện trên đảo, nhưng công suất hạn chế, chi phí rất cao, hỏng hóc thường xuyên do khí hậu biển khắc nghiệt.

Năm 2012, đặt dấu ấn của nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV (2010 - 2015). Cấp ủy, chính quyền huyện Cô Tô đã bàn bạc, mạnh dạn đề xuất báo cáo và được tỉnh Quảng Ninh quan tâm ủng hộ: phải đưa bằng được điện lưới từ đất liền ra huyện đảo để tháo gỡ nút thắt về điện.

Sau 350 ngày thi công, ngày 16/10/2013, dự án kéo điện lưới bằng cáp ngầm ra huyện đảo xa bờ đầu tiên trong cả nước với kinh phí hơn 1.100 tỷ đồng, trong đó có sự chung sức đóng góp nguồn xã hội hóa từ hầu hết các hộ dân, cán bộ, cơ quan đơn vị trong và ngoài tỉnh đã chính thức đóng điện trong niềm vui vỡ òa của người dân Cô Tô và cả tỉnh Quảng Ninh, trước ngày kỷ niệm 20 năm thành lập huyện Cô Tô khoảng 5 tháng.

Lãnh đạo huyện Cô Tô bấm nút đóng điện lưới 18h ngày 16/10/2013

Lãnh đạo huyện Cô Tô bấm nút đóng điện lưới 18h ngày 16/10/2013

Nhiều người già trên đảo nước mắt rưng rưng khi lần đầu tiên thấy ánh sáng từ lưới điện quốc gia trên đảo, người trẻ rạng ngời ánh mắt nhìn vào màn hình máy tính, vẫn còn bỡ ngỡ với việc sử dụng cáp quang kết nối Internet tốc độ cao để được học tập, được hoà nhập cùng dòng chảy thông tin toàn cầu; ước mơ nhiều thế hệ của quân và dân Cô Tô đã trở thành hiện thực.

Sự kiện đóng điện lưới quốc gia ra đảo Cô Tô lớn (16/10/2013), đảo Thanh Lân (31/12/2013), đảo Trần (02/9/2020) cùng việc đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình lưỡng dụng như: Các hồ chứa nước ngọt trên các đảo, hạ tầng giao thông, y tế, văn hóa, giáo dục; đầu tư các phương tiện cao tốc rút ngắn thời gian di chuyển từ đất liền ra Cô Tô còn 1,5 giờ đã làm thay đổi toàn diện Cô Tô. Kinh tế - xã hội của huyện phát triển mạnh mẽ; 3 khó khăn lớn nhất của huyện đảo là điện, giao thông đi lại với đất liền, nước ngọt sinh hoạt đã được giải quyết; bộ mặt, diện mạo, hình ảnh của Cô Tô thay đổi từng ngày.

Cô Tô phấn đấu trở thành huyện đảo không rác thải nhựa.

Cô Tô phấn đấu trở thành huyện đảo không rác thải nhựa.

Sau 30 năm thành lập, từ một huyện có cơ cấu kinh tế chỉ đơn thuần là nông, ngư nghiệp đã chuyển dịch mạnh mẽ sang dịch vụ, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm gần 70% cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 15 -17%. Những năm gần đây, hàng năm Cô Tô đón trên 300.000 khách du lịch, tăng gấp 10 lần so với trước năm 2013, với thời gian lưu trú trung bình 2 ngày/người.

Cuộc sống của người dân đảo ngày một tốt hơn, năm 2023 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 130 triệu đồng/người. Cô Tô đã có trung tâm y tế huyện và đủ các trạm y tế mỗi xã với tỷ lệ bác sỹ cao tốp đầu trong cả nước. Có 100% các trường học (10/10 trường) từ mầm non đến trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; 2 trường đạt chuẩn quốc gia cấp độ 2. Hạ tầng công nghệ thông tin tương đương với đất liền; tất cả các đảo và vùng biển được phủ sóng di động 3G, 4G, 5G. Văn hóa truyền thống biển đảo luôn được giữ gìn, kiến tạo và phát huy tốt đẹp. An ninh chính trị ổn định, chủ quyền, quyền chủ quyền biên giới quốc gia được bảo đảm. Cô Tô tiếp tục giữ vững những kết quả được trao truyền qua các thế hệ cán bộ, chiến sỹ, nhân dân, với hình ảnh địa phương 5 không: “Không còn hộ nghèo, không người ăn xin, không ma túy, không trộm cắp, không tệ nạn xã hội” và phấn đấu trở thành huyện đảo không rác thải nhựa.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh cắt băng khánh thành công trình cấp điện lưới quốc gia ra đảo Trần (Cô Tô)- công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, nhiệm kỳ 2020 -2025, ngày 2/9/2020.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh cắt băng khánh thành công trình cấp điện lưới quốc gia ra đảo Trần (Cô Tô)- công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, nhiệm kỳ 2020 -2025, ngày 2/9/2020.

Vóc dáng Cô Tô nhìn từ thuỷ phi cơ (ảnh chụp ngày 7/7/2023).

Vóc dáng Cô Tô nhìn từ thuỷ phi cơ (ảnh chụp ngày 7/7/2023).

Năm 2015, Cô Tô là huyện đảo đạt chuẩn Nông thôn mới đầu tiên trong cả nước và cơ bản đạt huyện Nông thôn mới nâng cao theo bộ tiêu chí mới năm 2022 của Chính phủ. Năm 2020 được phê duyệt theo Quy hoạch chung trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, đặc sắc về văn hóa và sinh thái của tỉnh Quảng Ninh và vùng ven biển Vịnh Bắc bộ, cùng với Vân Đồn trở thành 2 điểm đột phá về du lịch của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2030. Ngày càng có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu và mong muốn được đầu tư vào Cô Tô.

Du khách chụp ảnh tại Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô.

Du khách chụp ảnh tại Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô.

Cô Tô đang nỗ lực phát triển kinh tế “xanh”, đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Huyện đang quyết liệt với công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng, tài nguyên, hệ sinh thái biển, thu gom xử lý rác thải đại dương để hướng tới mục tiêu Cô Tô không rác thải nhựa. Sau 2 năm thực hiện đề án “Huyện đảo Cô Tô không rác thải nhựa”, nhận thức, thói quen, hành vi của người dân có chuyển biến tích cực, môi trường ngày càng được cải thiện và lan tỏa được tinh thần bảo vệ môi trường sinh thái biển đến nhiều địa phương biển đảo trong cả nước; nhiều loài động vật biển quý hiếm như cá voi, cá heo, rùa, vích đã thường xuyên xuất hiện trở lại vùng biển Cô Tô, mang đến tín hiệu tích cực, cho thấy Cô Tô thực sự là mảnh đất lành.

Những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân huyện Cô Tô trong suốt 30 năm qua đã được Nhà nước, Chính phủ ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý. Nơi đầu sóng ngọn gió, nhưng Cô Tô luôn Bác được che chở bằng hơi ấm dưới Tượng đài thiêng liêng; được nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước các thời kỳ đến thăm, động viên, căn dặn. Đó là nguồn cổ cũ, khích lệ to lớn để Nhân dân, cán bộ, chiến sỹ trên đảo tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu đạt nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong những năm tiếp theo.

Ngày xuất bản: 23/3/2024
Thực hiện: Đ/c Nguyễn Việt Dũng, Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Cô Tô
Trình bày: Vũ Đức