
Cách đây hơn 7 thế kỷ, dưới triều nhà Trần, Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử được Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập và phát triển cực thịnh. Trải qua biến thiên của thời gian và không gian, Phật giáo Trúc Lâm đã để lại một kho tàng di sản vật thể và phi vật thể đồ sộ với hệ thống di tích, di chỉ khảo cổ và các tác phẩm văn học nghệ thuật. Đây chính là tài sản văn hoá tinh thần vô cùng quý báu, đồng hành với lịch sử văn hóa dân tộc cho hôm nay và cả mai sau.
Đối với lịch sử và văn hóa Phật giáo thì thiền phái Trúc Lâm vẫn để lại dấu ấn thiêng liêng trên dãy núi Yên Tử mà ngàn đời sau con cháu người Việt dù có phải là tín đồ của Phật giáo hay không thì cũng luôn hướng về nơi đó, nơi có một vị vua của dân tộc Việt đã để lại những giá trị quý giá mà không phải đất nước nào cũng có được.

Trong dòng chảy lịch sử, Phật giáo Việt Nam có cả sự ảnh hưởng, tiếp nhận từ phương nam và phương bắc, có cả các bậc sư tổ người nước ngoài và người Việt, có cả sự trầm tích, cộng sinh và phát triển trên cơ sở văn hoá truyền thống bản địa. Từ đó đã hình thành một dòng thiền mang màu sắc dân tộc, đó chính là Thiền phái Trúc Lâm vào thời nhà Trần.
Đặt trong tương quan giữa Phật giáo và văn hoá dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt. Sự ra đời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát triển những giá trị văn hoá bản địa, nội sinh trong lòng dân tộc. Đây cũng chính là sự đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mỗi cộng đồng người ở từng thời đại, giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nền Phật giáo
đưa đạo vào đời

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Ất Mùi (1295), Thượng hoàng Trần Nhân Tông “đã xuất gia ở Hành cung Vũ Lâm, tu theo Đạo giáo” (Ninh Bình); Mùa thu năm Kỷ Hợi (1299), Thượng hoàng “lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”. Tại đây, Thượng hoàng đã kiến lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Người đương thời tôn kính gọi Ngài là Phật Hoàng hoặc Điều Ngự Giác Hoàng (Ông vua giác ngộ đạo Phật). Cùng với hai đệ tử kiệt xuất là Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang - cả ba vị được tôn là Trúc Lâm Tam Tổ - Các vị đã nỗ lực hoằng dương Phật pháp, thống nhất các Thiền phái có trước, kết hợp với Đạo giáo, Nho giáo và tín ngưỡng dân gian, phát triển Trúc Lâm Yên Tử - Phật giáo Trúc Lâm - Phật giáo của Đại Việt thời bấy giờ.
Tuy Phật giáo Trúc Lâm chính thức được kiến lập vào năm 1299, những tư tưởng cốt lõi của nó đã bắt đầu hình thành từ hơn 70 năm trước đó.

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trên núi Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh.
Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trên núi Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh.
Từ hơn 2.000 năm trước, dãy núi Yên Tử đã được các nhà tu hành Đạo giáo và Phật giáo lựa chọn để cư trú, tu hành và tên tuổi họ đã được lưu truyền trong nhân gian, sử sách.
Triều Lý qua 215 năm tồn tại (1010 - 1225) đã để lại một di sản rất to lớn trong lĩnh vực tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, sau này chiếm ưu thế trong Tam giáo và ảnh hưởng rất lớn đến triều Trần (1225 - 1400). Ba Thiền phái Phật giáo Tỳ - ni - đa - lưu - chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường phát triển mạnh, đến cuối thời Lý thì tự kết thúc hoặc phân nhánh phát triển theo hướng khác. Đầu thế kỷ thứ mười ba, ba Thiền phái kể trên dần nhập lại làm một. Hầu hết các cơ sở tu tập của hai Thiền phái Tỳ - ni - đa - lưu - chi và Thảo Đường được Thiền phái Vô Ngôn Thông tiếp nhận.
Thời vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224), Thiền sư Hiện Quang (chưa rõ năm sinh, mất năm 1221), đời thứ 14 của Thiền phái Vô Ngôn Thông, đã về Yên Tử lập ra dòng Thiền Yên Tử, trong đó Tam Tổ Phật giáo Trúc Lâm - Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang - đồng thời được tôn là Tổ truyền thừa thứ 6, 7 và 8 của dòng Thiền này. Nói cách khác, Phật giáo Trúc Lâm đã hình thành từ dòng Thiền Yên Tử.

Chùa Hoa Yên ở Yên Tử.
Chùa Hoa Yên ở Yên Tử.
Thiền sư Hiện Quang - Tổ khai sơn của Dòng Thiền Yên Tử - đã về Yên Tử tu ở chùa Hoa Yên. Qua Thiền uyển tập anh - tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam cổ nhất hiện biết - khuynh hướng tư tưởng của Thiền sư thể hiện rõ thái độ xuất thế tiêu cực, xa lánh, bất hợp tác với vương triều Lý lúc bấy giờ đã mục ruỗng, suy đồi. Thái độ đó trái với tinh thần nhập thế tích cực của học trò, đệ tử trưởng của Ngài là Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên - Tổ thứ hai của Dòng Thiền Yên Tử - và các thế hệ Tổ sư, Quốc sư sau này đã gần gũi, gắn bó, góp phần định hướng cho triều đình Nhà Trần.

Tu trên núi Yên Tử vào cuối thời Lý - đầu thời Trần, chính Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên là người đầu tiên đã đặt nền móng tư tưởng cho Phật giáo Đại Việt thời Trần mà Ngài đã cùng các thế hệ môn đệ kế tiếp của Dòng Thiền Yên Tử, như các Thiền sư, cư sỹ Đại Đăng, Trần Thái Tông, Tiêu Diêu, Trần Thánh Tông... tạo dựng. Trong đó, tác phẩm Thiền tông chỉ nam tự của vua Trần Thái Tông - người đương thời và cũng là đệ tử xuất sắc của Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên đã thể hiện rất rõ 4 điểm lớn của tư tưởng này:
•Phật vốn có sẵn ở nơi tâm của mình, không ở ngoài mình, chỉ cần giác ngộ tâm ấy là thành Phật.
••Muốn thành Phật không nhất thiết phải xuất gia. Tu tại gia, tu trong nhân gian cũng có thể thành Phật, thậm chí tu tại gia còn là khó nhất song nếu giác ngộ được cũng là thành tựu nhất. “Nếu giác ngộ được chữ “Tâm” thì lập tức thành Phật, cần gì phải đi cầu ở đâu!”. Quan điểm này trái ngược với việc khuyên người ta lánh đời thoát tục.
•••Phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình, thể hiện quan điểm Phật giáo rất tích cực, khẳng định Phật giáo không tách rời cuộc sống, dù là vua hay sư cũng phải phụng sự quốc gia và dân tộc.
••••Phải chuyên tâm tìm hiểu giáo lý nhà Phật, viết nên những tác phẩm Thiền học có giá trị để khai đạo cho người đời.
Theo PGS.TS Trần Hồng Liên, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, trong quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã đóng vai trò quan trọng, đã góp phần lớn trong việc hình thành bản sắc văn hóa dân tộc. Nền Phật giáo ấy đã đưa đạo vào đời. Tinh thần nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử chính là vạch ra một con đường mới đi đến giác ngộ, hoàn toàn khác với Phật giáo Ấn –Trung, đó là con đường đi đến giác ngộ bằng cách cứu dân độ thế, và trên con đường này tâm con người ngày càng khai mở bao trùm thiên hạ, muôn loài vạn pháp, tức đạt đến tâm Phật. Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc giữ nước. Quan điểm yêu nước phải đi đôi với thương dân đã làm cho tinh thần yêu nước của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đến với chủ nghĩa yêu nước chân chính.
Sự hiện diện đông đảo của đội ngũ Thiền gia
Từ đầu thời Trần (1225) đến trước khi Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính thức ra đời (1299), cùng với Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên, nhất là từ sau thời Quốc sư, rất nhiều Thiền sư, cư sỹ khác đã góp công tạo dựng nền Phật giáo Trúc Lâm. Giới xuất gia có Quốc sư Đại Đăng (đệ tử của Trúc Lâm Đạo Viên) và đệ tử là Thiền sư Tiêu Diêu... Giới cư sỹ có vua Trần Thái Tông, vua Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung (con anh trai vua Trần Thái Tông), vua Trần Nhân Tông..., cho thấy sự hiện diện đông đảo của đội ngũ Thiền gia lúc đó. Đó là những Thiền sư, cư sỹ xuất sắc, đóng góp nhiều vào việc tạo dựng Phật giáo Trúc Lâm, kế thừa và phát triển tư tưởng Trúc Lâm lên một tầm cao mới.

Từ đầu thời Trần (1225) đến trước khi Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính thức ra đời (1299), cùng với Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên, nhất là từ sau thời Quốc sư, rất nhiều Thiền sư, cư sỹ khác đã góp công tạo dựng nền Phật giáo Trúc Lâm. Giới xuất gia có Quốc sư Đại Đăng (đệ tử của Trúc Lâm Đạo Viên) và đệ tử là Thiền sư Tiêu Diêu... Giới cư sỹ có vua Trần Thái Tông, vua Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung (con anh trai vua Trần Thái Tông), vua Trần Nhân Tông..., cho thấy sự hiện diện đông đảo của đội ngũ Thiền gia lúc đó. Đó là những Thiền sư, cư sỹ xuất sắc, đóng góp nhiều vào việc tạo dựng Phật giáo Trúc Lâm, kế thừa và phát triển tư tưởng Trúc Lâm lên một tầm cao mới.
QUỐC SƯ ĐẠI ĐĂNG (chưa rõ năm sinh, năm mất)
Là Tổ truyền thừa thứ ba của Dòng Thiền Yên Tử, anh em đồng sư với vua Trần Thái Tông. Đóng góp nổi bật của Ngài là đã truyền bá tư tưởng Phật giáo của Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên và đào tạo được 2 đệ tử xuất chúng: Thiền sư Tiêu Diêu (thầy của Tuệ Trung Thượng sỹ) và cư sỹ - hoàng đế Trần Thánh Tông.
THIỀN SƯ TIÊU DIÊU (chưa rõ năm sinh, năm mất):
Là Tổ truyền thừa thứ tư của Dòng Thiền Yên Tử, được Tuệ Trung Thượng sỹ cung kính, khâm phục, coi là “Phật sống trần gian”;
CƯ SỸ - HOÀNG ĐẾ TRẦN THÁI TÔNG (1218 - 1277):

Hoàng đế Trần Thái Tông đặt nền móng cho triều đại nhà Trần phát triển gần 2 thế kỷ.
Hoàng đế Trần Thái Tông đặt nền móng cho triều đại nhà Trần phát triển gần 2 thế kỷ.
Là đệ tử của Quốc sư Trúc âm Đạo Viên và anh em đồng sư với Quốc sư Đại Đăng, Ngài là một trong những người đặt nền móng cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cả về lý luận lẫn phương pháp tu trì. Về lý luận, Ngài biên soạn Thiền tông chỉ nam và Khóa hư lục, cả hai đều được coi là kinh sách của Phật giáo Trúc Lâm, được khắc in để phổ biến trong bá quan, dân chúng, thực hành Lục thì sám hối khoa nghi từ lâu trước khi Phật giáo Trúc Lâm ra đời. Trong thực tiễn, Ngài còn chú trọng dựng chùa, tô tượng, cúng dường, độ đệ tử, làm dấy lên không khí luận đàm sôi nổi về Thiền học ở triều đình thời bấy giờ...; ∙ Cư sỹ - Hoàng đế Trần Thánh Tông (1240 - 1291). Là học trò của Quốc sư Đại Đăng, đồng sư với Thiền sư Tiêu Diêu, nhà vua rất uyên thâm đạo Phật. Những tác phẩm của Ngài như Văn tập, Thiền tông liễu ngộ ca, Chỉ giá minh, Phóng ngưu tập, Cơ cầu tập (nay đều đã thất truyền) tạo thêm tiền đề lý luận cho Thiền học đầu thời Trần và cũng là tiền đề tư tưởng, lý luận cho Phật giáo Trúc Lâm.
CƯ SỸ TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ TRẦN TUNG (1230 - 1291):
Được coi là một trong những cây đuốc sáng nhất về Thiền học đầu thời Trần, có công rất lớn trong việc tạo dựng nền móng cho Phật giáo Trúc Lâm ở cả 2 phương diện: Trực tiếp đào tạo Phật - Hoàng Trần Nhân Tông, ngườisau này sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm và tạo dựng những tiền đề lý luận và thực tiễn về giáo lý và cách thức tu trì của Phật giáo Trúc Lâm, chẳng hạn tư tưởng “hòa quang đồng trần” - một trong những đặc trưng nổi bật của Thiền học đầu thời Trần, thể hiện sự dấn thân và hòa mình vào cuộc sống của các vị Thiền sư. Tuệ Trung Thượng sỹ cũng có những cách lý giải đặc biệt đối với những vấn đề cơ bản của Thiền học, giúp các Thiền sư bứt ra khỏi các khái niệm giáo lý kinh điển, như về lẽ sắc - không, về trì giới - nhẫn nhục, về vô tâm trong đạo, về sự bình đẳng Phật tính, về mê - ngộ trong tu hành đạo Phật, về lẽ sinh - diệt, về chân - vọng... (được ghi lại trong tác phẩm Tuệ Trung Thượng sỹ ngữ lục - sách do Phật Hoàng Trần Nhân Tông ghi lời dạy của Tuệ Trung Thượng sỹ, Thiền sư Pháp Loa khắc in).

Tượng Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Tượng Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Lịch sử cho thấy, quá trình hình thành Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử cũng là quá trình đúc kết, dung hợp 3 dòng thiền đã có trong lịch sử: dòng Tỳ - ni – đa - lưu - chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, để sáng tạo nên một đường hướng mới mẻ, mang tính dân tộc rõ nét, đồng thời cũng bộc lộ một xu hướng mới, xu hướng “về nguồn” cho nền Phật giáo nước nhà. Đó là sự tự mình phân biệt với Thiền tông Trung Hoa; biệu lộ tính độc lập để nhằm thống nhất ý thức hệ. Phái Trúc Lâm Yên Tử đã hoạt động theo tinh thần nhập thế, mang bản sắc dân tộc, thể nghiệm tu chứng ngay giữa cõi đời này. Chủ nghĩa yêu nước qua tinh thần nhập thế vào đời của các thiền sư, đã giúp cho Phật giáo Việt Nam gắn bó với đất nước và dân tộc suốt cuộc hành trình giữ nước của dân tộc Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, khẳng định: Những tư tưởng lớn của Phật giáo Trúc Lâm không chỉ có giá trị ở thời đại nó ra đời mà còn khẳng định sức lan tỏa qua hơn 7 thế kỷ cho đến ngày nay. Nhiều lễ hội truyền thống vẫn đang được cộng đồng dân cư trong vùng di sản vừa bảo tồn, vừa cải biến, nâng cấp thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Từ đây kho tàng di sản văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm được tiếp biến trong dòng chảy văn hóa Việt.

GS. TS. Nguyễn Văn Kim, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích, sự phát triển của Phật giáo Trúc Lâm thể hiện sự trưởng thành của ý thức dân tộc; sự tự tin, tinh thần sáng tạo của văn hóa dân tộc. Đó là quá trình hợp luyện với các giá trị truyền thống, xây dựng một tâm thế mới, khẳng định cốt cách, giá trị mới để từ đó đem lại sinh lực mới cho sự phát triển của dân tộc. Đặc tính căn bản của dòng phái này là sự khoan hòa, có năng lực nhập thế cao và tinh thần dân tộc sâu sắc. Nói cách khác, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã chuyển hoá thành công một trong những triết lý căn bản của Phật giáo từ vô vi xuất thế sang nhập thế hữu vi, đồng thời đưa quan niệm này thành giá trị chung, hòa với dòng chảy của văn hóa - tín ngưỡng - tâm thức dân tộc để trở thành tinh hoa của Thiền Việt và văn hóa dân tộc.
Tinh thần sáng tạo của văn hóa dân tộc

Sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử tu mùa Thu năm 1299, làm Tổ truyền thừa thứ 6 của Dòng Thiền Yên Tử, sáng lập và trở thành Đệ nhất Tổ của Phật giáo Trúc Lâm thì Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt bước sang trang mới. Đặc biệt, từ sau khi Đồng Kiên Cương (Pháp Loa) xuất gia năm 1304 và quan trạng Lý Đạo Tái (Huyền Quang) xuất gia năm 1305, về sau giữ vai trò Tổ thứ 7 và thứ 8 của Dòng Thiền Yên Tử và Đệ nhị, Đệ tam Tổ Phật giáo Trúc Lâm thì Phật giáo này phát triển đến cực thịnh, giữ vai trò nòng cốt trong nền Phật giáo Đại Việt thời đó, có lẽ cho đến khi vua Trần Minh Tông băng hà năm 1358, đánh dấu thời kỳ suy vong của vương triều Trần.
Dưới thời Tam Tổ, Phật giáo Đại Việt, bên cạnh việc hành trì giáo luật của nhà Phật như Tứ phần luật (dành cho giới xuất gia), Ngũ giới, Thập thiện (dành cho cư sỹ, Phật tử tại gia)..., còn khuyến giảng, thực hành giáo luật Trúc Lâm như Lục thì sám hối khoa nghi (do vua Trần Thái Tông soạn), hoặc các nghi thức, sớ điệp dùng trong nghi lễ Phật giáo được tập hợp trong Pháp sự khoa văn và các nghi thức về cúng đàn chẩn tế được soạn trong Độ môn trợ thành tập của Đệ nhị Tổ Pháp Loa; Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương (khoa nghi), Chư phẩm kinh (khoa nghi) của Huyền Quang...

Vua con Trần Anh Tông và các triều thần nghênh đón vua cha, Phật hoàng Trần Nhân Tông khi Ngài tu hành đắc đạo, rời khỏi động Vũ Lâm trở về. (Trích đoạn bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ)
Vua con Trần Anh Tông và các triều thần nghênh đón vua cha, Phật hoàng Trần Nhân Tông khi Ngài tu hành đắc đạo, rời khỏi động Vũ Lâm trở về. (Trích đoạn bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ)
Từ sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành và Phật giáo Trúc Lâm ra đời, tăng đoàn Phật giáo và Phật tử Đại Việt được nhân lên nhiều lần về số và lượng. Tăng đoàn thuộc Giáo hội Trúc Lâm lúc cực thịnh có tới 30.000 tăng ni. Hệ thống chùa chiền có trước và được dựng mới trong giai đoạn này trải rộng khắp Đại Việt, đặc biệt trên Dãy núi Yên Tử. Cùng với đó, kinh Đại tạng và kinh sách Phật giáo Trúc Lâm đã được ấn tống, phát hành rộng rãi trên cả nước.
Theo Thượng tọa Thích Đức Thiện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay được cho là di sản tiếp nối của Giáo hội Trúc Lâm thời Trần.
Phật giáo Trúc Lâm được khởi lập từ dòng Thiền Yên Tử, kế thừa tinh hoa của ba dòng Thiền có trước đó là Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi chú trọng tư tưởng Bát-nhã và tu tập thiền quán. Thiền phái Vô Ngôn Thông chủ trương “đốn ngộ” (giác ngộ nhanh chóng) và “nhập thế”. Thiền phái Thảo Đường lại thiên trọng trí thức và văn chương...;

Phật hoàng Trần Nhân Tông trong sách "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh" của Ngô Thì Nhậm, mộc bản khắc năm Bính Thìn (1796). Nguồn: Thư viện Huệ Quang
Phật hoàng Trần Nhân Tông trong sách "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh" của Ngô Thì Nhậm, mộc bản khắc năm Bính Thìn (1796). Nguồn: Thư viện Huệ Quang
Phật giáo Trúc Lâm dung hợp tam giáo (Phật-Nho-Đạo) và tín ngưỡng bản địa. Giáo lý Trúc Lâm hàm chứa nội dung tư tưởng, luân lý đạo đức của Nho giáo, Đạo giáo. Một số kinh văn Nho giáo, Đạo giáo đã được chọn lọc, tiếp thu, trở thành giáo lý Trúc Lâm. Nhiều vị vua, hoàng thân quốc thích, quan lại lẫn dân chúng thời Trần vừa là Phật tử thuần thành đồng thời cũng thấm nhuần tư tưởng, triết lý, luân lý của Đạo giáo, Nho giáo. Sở dĩ có sự hòa hợp tam giáo như thế là vì vua quan, dân chúng Việt Nam thời bấy giờ nhận thức Nho, Phật, Đạo là phương tiện bảo vệ luân lý làm người hơn là những giáo thuyết tôn giáo siêu hình. Phật giáo Trúc Lâm chịu ảnh hưởng và tiếp thu tinh hoa văn hóa, tư tưởng của Nho giáo (tinh thần nhập thế tích cực) và Đạo giáo (tư tưởng tiêu dao, vô vi, thoát tục). Phật giáo Trúc Lâm không bài xích mà còn tôn trọng tín ngưỡng dân gian truyền thống tốt đẹp như tục thờ cúng tổ tiên nhưng lại tuyệt đối bài trừ những tập tục thờ cúng ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục;
Phật giáo Trúc Lâm dung hợp tam tông (Thiền-Tịnh-Mật). Phương thức tu tập của Phật giáo Trúc Lâm dung hợp việc hành Thiền của Thiền tông với việc niệm Phật, học giáo lý, trì giới của pháp môn Tịnh Độ và việc thực nghiệm các pháp trì chú, trai đàn chẩn tế, quán đỉnh... của Mật Tông. Phật giáo Trúc Lâm đồng thời cũng thể hiện được sự thống nhất giữa các phương pháp thực hành đời sống đạo được thiền định của Phật giáo Nguyên thủy Theravada với lập trường tư tưởng triết học của Phật giáo Đại thừa Mahayana;

Tu sĩ Phật giáo và Phật tử hành lễ trước Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông ở An Kỳ Sinh, Yên Tử.
Tu sĩ Phật giáo và Phật tử hành lễ trước Bảo tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông ở An Kỳ Sinh, Yên Tử.
Tuy có sự dung hợp Nho giáo và Đạo giáo gốc từ phương Bắc, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần vẫn “là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần của quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng, nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập 1) - Nhà Xuất bản Văn học Hà Nội 1979):
Phật giáo Trúc Lâm đề cao lối sống “Hòa quang đồng trần”, “Cư trần lạc đạo” và đặc biệt là tư tưởng “Nhập thế tích cực”. Đó là sự thống nhất tự nhiên và sống động giữa đời thường và hành trạng của một Thiền sư, không cường điệu, giả tạo hay gượng ép, không cô lập hay tách rời đời thường với hành vi của một Thiền sư, mà tạo nên mối liên hệ giữa Đạo và Đời, làm cho Đạo đạo hơn và Đời đời hơn. Thông qua chủ trương gắn Đạo với đời, phụng sự đất nước và thế giới, tinh thần luân hồi trong Phật giáo Trúc Lâm càng thêm mạnh mẽ. Phật hoàng Trần Nhân Tông chủ trương nhập thế tích cực, dấn thân và Phật giáo Trúc Lâm đã tạo ra một tinh thần nhập thế và dấn thân tích cực, mãnh liệt, vượt trội so với Thiền tông ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới;
Phật giáo Trúc Lâm tôn trọng sự tùy duyên trong việc hành trì, giáo hóa độ sinh của các Thiền sư và cư sỹ. Tinh thần khế lý, khế cơ (hợp với chân lý, với sự thật, với trình độ) của đạo Phật được phát huy trong việc hướng dẫn chúng dân tùy theo căn cơ mà tu tập, ai cũng có thể tu được. Người chưa đủ điều kiện thực hành Thiền vẫn có thể tu theo Tịnh Độ. Hàng vua quan, trí thức có thể tu theo Bồ-tát giới trong khi chúng dân thực hành Thập Thiện...
Phật giáo Trúc Lâm
và triều Trần

Năm vị vua đầu tiên triều Trần là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông (ở ngôi tổng cộng 104 năm (1225-1329), và làm Thượng hoàng tổng cộng 133 năm (đến 1358)) đều là những vị vua anh minh, tài đức, đồng thời cũng là những Phật tử thuần thành. Cả năm vị đều có kiến thức Phật học rất cao và đều là những Thiền giả đã chứng ngộ. Trong thời gian trị vì, cả năm vị đều hết lòng hoằng dương chính pháp, nên Phật giáo Đại Việt rất hưng thịnh. Vua Nhân Tông còn xuất gia tu hành, tạo lập đỉnh cao Phật giáo Trúc Lâm. Thêm vào đó, các vị vua kể trên còn nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ của đông đảo các vị quốc sư, Thiền sư, cư sỹ khác cùng thời.

Bảo tượng Phật hoàng và khu vực An Kỳ Sinh ở Yên Tử.
Bảo tượng Phật hoàng và khu vực An Kỳ Sinh ở Yên Tử.
Đặc biệt, ba vị vua đầu triều cùng nhiều vị quốc sư, Thiền sư, cư sỹ đều đã từng phải trực tiếp tham gia nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Hơn ai hết, các vị đều hiểu rõ bản chất hòa bình, hướng thiện, vị tha, phản đối sát sinh, phản đối chiến tranh... của Phật giáo. Nhưng cũng hơn ai hết, các vị cũng nhận thức rõ rằng nếu Tổ quốc bị xâm lược, bị mất độc lập, chủ quyền, nếu dân tộc bị áp bức, bị buộc làm nô lệ thì sẽ chẳng có Phật giáo “hòa bình, hướng thiện, vị tha, không sát sinh, bài trừ chiến tranh...” nào hết. Trong bối cảnh đất nước thường trực nguy cơ ngoại xâm, không có con đường nào khác là Phật giáo phải đồng hành cùng đất nước, cùng dân tộc, phải trở thành hệ tư tưởng chủ đạo để đoàn kết, huy động mọi lực lượng quân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, hùng cường, toàn vẹn lãnh thổ.
Các vị vua đầu triều Trần cùng đông đảo các vị quốc sư, Thiền sư, cư sỹ cùng chí hướng đương thời đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thời đại lúc bấy giờ là phải xây dựng một ý thức hệ độc lập cho toàn dân Đại Việt, không lệ thuộc vào ngoại bang. Vì thế Nhà Trần đã chủ yếu dựa vào Thiền tông làm nền tảng tinh thần (bên cạnh Nho giáo và Đạo giáo) nhưng chủ động thay đổi một số nội dung, đặc biệt là các nội dung tiêu cực và thân ngoại, để phù hợp với thực tiễn thời đại, thống nhất ý thức hệ để tạo nên Phật giáo nhất tông, biểu lộ tính độc lập, phụng sự lợi ích quốc gia, dân tộc. Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần đã thực sự trở thành “phương tiện dẫn dụ quần mê, đường tắt tỏ nẻo sinh tử”, “làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai” như trong bài tựa sách “Thiền tông chỉ nam ca” vua Trần Thái Tông đã viết. Phật giáo Trúc Lâm thực sự đã có nhiều đóng góp trong mọi mặt cuộc sống của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ.
Theo GS, TS. Nguyễn Văn Kim, hầu hết các vua, quý tộc thời Trần đều là những người ham học và có tri thức uyên bác trên nhiều lĩnh vực. Sinh thành từ vùng hạ châu thổ, dòng họ Trần đã tiến về Thăng Long và đã hội nhập mau chóng với môi trường văn hóa, nguồn lực tri thức dân tộc cùng nhiều giá trị văn hóa khu vực ngưng kết ở đất kinh kỳ. Do vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, những người gánh vác trọng trách trước dân tộc, hầu hết đều là các quý tộc - trí thức thông hiểu Tam giáo. Tư tưởng thân dân, coi trọng vai trò, cuộc sống của nhân dân cũng được trải nghiệm, đúc rút từ chính thực tế đó.
Có thể coi việc lựa chọn và tôn vinh Phật giáo là một chủ trương lớn, thể hiện sự nhạy cảm trong tư duy chính trị, văn hóa của nhà Trần trước sự uy hiếp của các đế chế khu vực. Phật giáo nhà Trần là một Phật giáo Việt Nam và là một bình diện văn hóa mới trong lịch sử văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần và khát vọng dân tộc. Sức mạnh quật cường được tôi luyện qua mười thế kỷ Bắc thuộc cùng khí thế đi lên của một dân tộc đã giành lại được nền độc lập gần ba thế kỷ đã dồn tụ, hun đúc để tạo nên một Phật giáo Thiền Trúc Lâm kết tụ hồn khí của dân tộc thời Trần.

Với sự ra đời, phát triển và tồn tại của Phật giáo Yên Tử hơn 700 năm qua, người Việt Nam ta rất tự hào vì ở châu Á đâu chỉ có Ấn Độ và Trung Hoa là “trung tâm văn hóa”, “cái nôi văn minh” của nhân loại mà ở Việt Nam, một dân tộc hào hùng, bất khuất đã thực sự trở thành một cái nôi tư tưởng Phật học Trúc Lâm. Đặc biệt, những giá trị được tạo ra từ Phật giáo Trúc Lâm trong đời sống Đại Việt thời Trần là hết sức to lớn và được lưu giữ, phát huy trong đời sống xã hội hôm nay, ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống nhân loại.
Giáo lý Trúc Lâm và những giá trị vượt thời gian

Lịch sử cho thấy, Giáo lý Trúc Lâm đem lại nhận thức mới về Phật. Khác với quan niệm phổ biến trước đó và ngay cả hiện nay, rằng “Phật ở ngoài mình”, ở cõi Tây phương cực lạc, Phật là đấng tối linh ban phước giáng họa, người trần chỉ biết kêu cầu…, giáo lý Trúc Lâm, qua một loạt vị Thiền sư, cư sỹ như Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên, Hoàng đế-cư sỹ Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung, đến Phật Hoàng Trần Nhân Tông... đều cho rằng “Phật tức Tâm” và “Bụt là ta”. Phật ở ngay trong Tâm mình, không phải ở đâu khác trên cõi trời xa xôi, không hẹn kiếp khác. Làm người từ bậc thiện tri thức đến tầng lớp bình dân đều có sẵn Tâm Phật. Nếu để cho Tâm mình tĩnh lặng, an định, sáng suốt, buông mọi vọng niệm, tham-sân-si để sống với bản tâm an nhiên thanh tịnh, soi lại tâm mình thì trí sáng, tuệ giác phát sinh, vô minh phủi sạch, khổ đau chấm dứt, sẽ giác ngộ thành Phật. Vì “Phật tại Tâm”, nên ai cũng tu được, tu mọi lúc, mọi nơi, không chỉ lên chùa, kể cả lúc cầm gươm ra trận.
Quan niệm “Phật là Ta” là bản lĩnh tư tưởng đặc sắc và mạnh mẽ của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Quan điểm này bảo vệ và đề cao việc con người tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chính mình; chính mình làm nên và quyết định tất cả, không ỷ lại trông chờ vào tha lực. Bản lĩnh tư tưởng đặc sắc và mạnh mẽ này tác động to lớn đến tư tưởng, tinh thần, góp phần vun đắp ý chí tự chủ, quật cường ở người dân Đại Việt, làm nên thắng lợi trong cả ba cuộc kháng chiến chống đế chế Mông Cổ và tái thiết đất nước.

Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Cùng với đó, Giáo lý Trúc Lâm cũng đem lại nhận thức mới về nơi tu hành. Đó là tu trong đời thường, “cư trần lạc đạo” (sống ở cõi phàm trần vui với Đạo), “hòa quang đồng trần”, không tách rời cuộc sống trần tục (nhập thế), ai đủ căn duyên thì xuất gia, còn lại thì tu tại gia. “Chỉ cần giác ngộ được chữ Tâm là lập tức thành Phật, cần gì cầu tìm ở bên ngoài” - lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm không chỉ dành riêng cho vua Trần Thái Tông mà còn chung cho toàn dân Đại Việt - được chép lại, phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp chúng dân.
Bên cạnh đó, Giáo lý Trúc Lâm còn đem lại nhận thức mới về mối quan hệ giữa “Tâm của mình” với “Tâm thiên hạ”. Quốc sư Trúc Lâm Đạo Viên khuyên vua Trần Thái Tông: “Phàm đã làm vua trong thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nếu bệ hạ thực lòng hiểu Phật thì không gì bằng lo cho hạnh phúc của trăm họ, giảm nhẹ hình án, chăm lo cây đức của mọi nhà mãi mãi sum xuê”. Trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam, với lời khuyên đó, lần đầu tiên mối quan hệ giữa “Tâm của mình” với “Tâm thiên hạ” được đặt ra trong một mệnh đề “phải lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình”.
Qua lời khuyên đó, tâm từ bi của đạo Phật đã được truyền thụ thành tư tưởng chính trị của một bậc quân vương. Tư tưởng chính trị ấy đã giúp vua Trần Thái Tông cùng triều Trần đưa Đại Việt từng bước phục hồi sau những biến động chính trị, kinh tế và chính quyền cuối thời Lý, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng quốc gia Đại Việt lâu dài.

Vườn tháp Tổ nơi lưu giữ hồn cốt các vị thiền sư tu hành theo dòng Thiền Trúc Lâm tại Yên Tử.
Vườn tháp Tổ nơi lưu giữ hồn cốt các vị thiền sư tu hành theo dòng Thiền Trúc Lâm tại Yên Tử.
Tư tưởng chính trị ấy đã giúp cho Nhà Trần “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước gắng sức”, lập nên những chiến công oanh liệt, ba lần kháng chiến chống đế chế Mông Cổ thắng lợi, đồng thời là ánh sáng soi dẫn những chính sách canh nông, đê điều, chấn chỉnh phong hóa, khuyến học, khuyến tài, cứu tế người cô quả, chăm lo phúc lợi và đời sống cho trăm họ, xây dựng đất nước thịnh vượng... mà Nhà Trần đã thực hiện thành công trong nửa đầu triều đại của mình. Tư tưởng chính trị ấy đề cao tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường của người dân Đại Việt, không chịu lệ thuộc vào cường quốc phương Bắc, đề cao giá trị con người (ai cũng có thể thành Phật), xây dựng nhân cách con người và nền đạo đức xã hội, trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức cho cả một giai đoạn hoàng kim đầu thời Trần.
Không chỉ thế, Giáo lý Trúc Lâm còn chỉ ra pháp tu Tâm “soi sáng lại chính mình”. Tông chỉ của Trúc Lâm là “phản quan tự kỷ” (soi sáng lại chính mình), khuyên con người luôn quán chiếu lại mình, không chỉ quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan để nhận thức về chúng mà còn quan sát ngược vào bên trong để tìm hiểu nội giới của chính bản thân mình. Cùng với “Lục thì sám hối” (sáu thời khắc sám hối), “phản quan tự kỷ” cũng chính là hình thức, biện pháp tự kiểm thảo, tự tu dưỡng trau dồi đức hạnh mà Phật giáo Trúc Lâm chủ trương áp dụng, giúp cho con người tử tế, tốt đẹp lên, nhờ đó làm cho xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.

Các nhà sư nước ngoài về dâng hương tại tháp Tổ Huệ Quang, nơi an trí xá lị Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại Yên Tử.
Các nhà sư nước ngoài về dâng hương tại tháp Tổ Huệ Quang, nơi an trí xá lị Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại Yên Tử.
Đồng thời, Giáo lý Trúc Lâm cũng răn dạy con người tâm hướng thiện. Tư tưởng Trúc Lâm lấy con người làm gốc, tôn trọng và đề cao giá trị con người, đề cao việc rèn luyện luân lý đạo đức hơn là tôn giáo. Giáo lý Trúc Lâm khuyên răn con người không tham-sân-si, không làm việc ác, làm việc đức, việc thiện, thương yêu người khác, tôn trọng phép nước, kính cha, thờ vua, góp phần tích cực xây dựng nên một xã hội đạo đức, một Tịnh Độ ở trần gian.
Hệ thống chùa chiền, đội ngũ đông đảo các Thiền sư, cư sỹ Phật giáo Trúc Lâm là những người thầy dạy Đạo, giúp người Việt khai tâm sáng trí. Các trường ở làng xã, phủ châu thời Trần đều là trường tư thục. Nhiều ngôi chùa kiêm chức năng trường học. Nhiều Thiền sư, cư sỹ có tri thức trở thành thầy dạy học, góp phần mở mang, nâng cao dân trí. Các kinh sách, khoa nghi do các nhà kinh điển Phật giáo Trúc Lâm biên soạn đều được triều đình cho khắc in, phổ biến rộng rãi cả trong văn võ bá quan lẫn trong dân chúng.
Niềm tự hào cho người dân Đại Việt

Với sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần - lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có Tổ sáng lập là người Việt Nam. Hình ảnh Phật Hoàng Trần Nhân Tông - một Ông Vua - khước từ công danh phú quý xuất gia về Yên Tử tu hành sáng lập Phật giáo Trúc Lâm đẹp đẽ uy linh chẳng khác gì Hoàng thái tử Siddhārtha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-Đàm) lên non xanh quyết chí tu hành, trở thành Đức Phật Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) - Tổ khai sáng của Phật giáo thế giới. Người dân thờ Phật, thờ Tổ tại các chùa chiền, tư gia không chỉ có thờ Phật, thờ Tổ người ngoại quốc mà còn thờ Đức Phật Việt Nam là Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các Chư Tổ Phật giáo là người Việt Nam.

Khu di tích - danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí) hiện còn hàng trăm am tháp được xây dựng qua các đời.
Khu di tích - danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí) hiện còn hàng trăm am tháp được xây dựng qua các đời.
Với sự xuất hiện của các thế hệ Tổ và các thế hệ đại đệ tử xuất chúng như 5 vị vua đầu thời Trần và các Thiền sư, cư sỹ ngộ đạo thời Trần, lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có giáo lý, giáo luật và giáo lễ do chính người Việt biên soạn, cả bằng chữ Hán (Thiền tông chỉ nam, Khóa hư lục... của Trần Thái Tông) nhưng phần lớn bằng chữ Nôm (Cư trần lạc đạo phú... của Trần Nhân Tông), phù hợp với tư duy, lối cảm cách nghĩ của người Việt, không những dễ hiểu, dễ nhớ, dễ truyền tụng, phổ biến trong dân chúng mà còn khơi dậy niềm tự hào dân tộc, rằng họ không chỉ được học ngoại điển mà cả nội điển do chính người Việt biên soạn, rằng Đại Việt cũng có các nhà tư tưởng hiền triết. Sự ra đời của Phật Tổ Việt Nam và các thế hệ Chư Tổ Phật giáo Việt Nam đã dần dẹp bỏ tâm lý tự ti dân tộc, hun đúc niềm tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, tạo nên sức mạnh tinh thần bất khuất của người dân Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống đế chế Mông Cổ xâm lược, đồng thời khẳng định chủ quyền, vị thế Đại Việt trước các nước láng giềng.
Phật giáo Trúc Lâm phát triển đã tạo nên một luồng sinh khí mới mạnh mẽ cho Đại Việt thế kỷ 13- 14, tạo nên một sự thống nhất cao độ giữa chính quyền và tôn giáo, giữa tầng lớp quý tộc và mọi tầng lớp nhân dân. Bia “Thiệu Phúc tự bi ký” ở Bắc Giang do Thượng thư Lê Quát (thế kỷ 14) soạn cho biết vào thời kỳ phát triển của Phật giáo Trúc Lâm: “… Trong từ kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta vẫn cứ tin… Đạo Phật rất dễ thịnh hành và rất được người ta tôn sùng” và “trên từ vương công, dưới đến dân thường phàm là đóng góp vào việc Phật thì dù có dốc hết tiền của cũng không tiếc”.

Tượng đạo sĩ An Kỳ Sinh tại Khu di tích - danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí, Quảng Ninh).
Tượng đạo sĩ An Kỳ Sinh tại Khu di tích - danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí, Quảng Ninh).
Thời Trần, Đại Việt có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Trong Phật giáo cũng tồn tại 3 tông phái chính là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Được sự bảo trợ của triều đình, các tôn giáo, tông phái trên có điều kiện củng cố vị thế và cùng tồn tại. Các tôn giáo hay các tông phái khác nhau trong cùng một tôn giáo thường có những quan điểm tư tưởng, cách thức tu tập hành đạo khác nhau. Mặc dù trong lịch sử Việt Nam chưa từng xảy ra chiến tranh giữa các tôn giáo, song những khác biệt về tư tưởng, hành vi giữa các tôn giáo hoặc thậm chí giữa các tông phái trong cùng một tôn giáo nếu không có được sự dung hợp, thống nhất rất dễ xảy ra mất đoàn kết trong xã hội. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của sự đoàn kết, hòa hợp tôn giáo, dân tộc, các vua đầu triều Trần và các thế hệ Thiền sư, cư sỹ thời đó đã lập nên Phật giáo Trúc Lâm - một Phật giáo có sự dung hợp Tam giáo Phật-Nho-Đạo và tín ngưỡng dân gian, có sự hiển đạt Tam tông Thiền-Tịnh-Mật, một “Phật giáo mới” mang đậm bản sắc Đại Việt.
Nhờ sự dung hợp ấy, Phật giáo Trúc Lâm đã thực sự trở thành “Ngôi nhà chung” của các tôn giáo, các tông phái Phật giáo và tất cả những ai theo đạo thờ cúng Tổ tiên, Thánh Mẫu, Tứ phủ, Thành hoàng... theo tín ngưỡng dân gian. Sự dung hợp ấy đã giúp vua tôi thời Trần không phân biệt khuynh hướng tư tưởng, chia rẽ tôn giáo, giai tầng trong xã hội, hợp thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính sự đoàn kết trong tôn giáo nói riêng và toàn dân tộc nói chung đã tạo thành sức mạnh khiến cho một quốc gia nhỏ như Đại Việt có thể bảo vệ đất nước trước nạn xâm lăng của đế chế Mông Cổ.

Mai vàng Yên Tử.
Mai vàng Yên Tử.
Không chỉ tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, Phật giáo Trúc Lâm còn góp phần tạo nên tình bang giao hữu hảo giữa Đại Việt với các nước láng giềng. Nhờ chuyến vân du hoằng pháp sang Chiêm Thành của Phật Hoàng Trần Nhân Tông tháng 3 năm 1301 mà hai quốc gia đã trở nên hòa hiếu, chung sống hòa bình. Bằng “con đường ngoại giao của nhà Phật”, chỉ sau chiến thắng đế chế Mông Cổ lần thứ ba 7 năm, năm 1295, Phật Hoàng cùng vua Trần Anh Tông đã sai sứ giả sang Đại Nguyên để xin thỉnh ấn kinh Đại Tạng rồi cho ấn tống, ban phát rộng khắp, góp phần gìn giữ hòa bình, ngăn chặn chiến tranh. Kể từ sau cuộc kháng chiến chống đế chế Mông Cổ lần thứ 3 (1288) đến trước cuộc xâm lăng của nhà Minh vào tháng 4 năm 1406, Đại Việt đã tránh được nạn binh đao từ phương Bắc đem lại trong khoảng thời gian 118 năm. Các nước ở vùng Đông Nam Á thời đó nhờ vậy cũng tránh được kiếp nạn này.

Những báu vật của kho tàng văn hoá Việt Nam

Sự ra đời và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã để lại cho hậu thế những bản kinh văn và các bản sách quý giá, những sách dạy cho các tăng môn và dân chúng của Thiền phái Trúc Lâm tu tập, sám hối, tu hành thập thiện như: Thiền tâm thiết chuỷ ngữ lục, Đại Hương Hải ấn thi tập, Tăng già Toái sự, Thạch thất Mỹ Ngữ, Truyền Đăng Lục, Thượng Sĩ hành trang… Đây là những di sản văn hoá phi vật thể quý giá đang đồng hành cùng sự phát triển của lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, Thiền phái Trúc Lâm cũng để lại cho đời sau nhiều công trình văn hoá vật thể quý báu: chùa chiền, am, tháp được hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của chốn tổ Trúc Lâm tại Yên Tử. Những di sản vật thể quý báu đó đã phản ánh khá rõ nét về sự phát triển của kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc Việt Nam qua các triều đại Lý - Trần - Lê - Nguyễn. Đó là những báu vật, cổ vật có một không hai trong kho tàng văn hoá Việt Nam.

Nhiều dấu tích kiến trúc thời Trần được tìm thấy qua khảo cổ tại khu di sản nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), thuộc Quần thể di sản Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc đang được đề cử là Di sản thế giới. Ảnh: Phan Hằng
Nhiều dấu tích kiến trúc thời Trần được tìm thấy qua khảo cổ tại khu di sản nhà Trần tại Đông Triều (Quảng Ninh), thuộc Quần thể di sản Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc đang được đề cử là Di sản thế giới. Ảnh: Phan Hằng
Hiện nay, nhiều di tích/khu di tích được xếp hạng Quốc gia, Quốc gia Đặc biệt, như: Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử (Quảng Ninh), Khu di tích lịch sử Nhà Trần ở Đông Triều (Quảng Ninh), Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, chùa Thanh Mai (Hải Dương)... đang lưu giữ nhiều di vật được xếp hạng là Bảo vật quốc gia như: Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong tháp Huệ Quang trước chùa Hoa Yên, Hộp vàng Ngọa Vân (Đông Triều, Quảng Ninh), Nhang án đá ở chùa Khám Lạng (Bắc Giang)...
Trải qua thời gian cùng với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, đặc biệt là các cuộc chiến tranh khiến cho hầu hết các cơ sở tự viện của Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần bị hủy hoại. Nhờ các kết quả nghiên cứu văn hóa, lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt là khảo cổ học, nhiều di sản văn hóa vật thể của Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần ngày càng được phát lộ, cho thấy Phật giáo Trúc Lâm đã để lại một lượng di sản văn hóa vật thể không hề nhỏ.

Chiếc hộp vàng Ngọa Vân - Yên Tử, một biểu tượng của Phật giáo Trúc Lâm, đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Chiếc hộp vàng Ngọa Vân - Yên Tử, một biểu tượng của Phật giáo Trúc Lâm, đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Theo TS Lê Thị Liên, Hội Khảo cổ học Việt Nam, hệ thống di tích, các công trình hiện còn tại Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính là những di sản văn hóa vật thể phản ánh bức tranh tổng thể về con đường tu tập, sự ra đời, quá trình hoạt động và đóng góp của Phật giáo Trúc Lâm. Một số di tích được khảo cổ từ thời Trần nhưng quá trình tiếp nối đã trải qua các thời Lê, Nguyễn và vẫn còn đến hiện nay như chùa Hoa Yên, chùa Ngoạ Vân, chùa Vĩnh Nghiêm… có giá trị to lớn trong việc khẳng định giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
TS Lê Thị Liên nhấn mạnh: Phật giáo Trúc Lâm có câu chuyện lý thú về quá trình ra đời, là cách mà Phật hoàng Trần Nhân Tông từ một vị vua lãnh đạo đất nước đã từ bỏ ngai vàng đi tu tập, sáng lập nên Phật giáo thuần Việt; đó là quá trình bản địa hoá của Phật giáo khi vào Việt Nam một cách độc đáo, khác với các quốc gia khác ở chỗ Phật giáo Trúc Lâm phát triển thành triết lý “Phật giáo dấn thân” hay chính là Phật giáo nhập thế. Trần Nhân Tông vừa là vua, vừa là lãnh đạo tôn giáo, lập ra Phật giáo Trúc Lâm, vừa tham gia tích cực vào việc triều chính, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và quay trở lại giáo hoá triều đình và nhân dân. Với điểm đặc biệt ấy, Phật giáo Trúc Lâm đã góp phần vào việc gây dựng thời nhà Trần phát triển rực rỡ, thịnh vượng nhất của quốc gia Đại Việt.
Di sản cho muôn đời sau

Có thể thấy, cùng với các di sản văn hóa vật thể, Phật giáo Trúc Lâm để lại nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể đến tận ngày nay.
Trước hết là bản thân cuộc đời và sự nghiệp phi thường của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tấm gương cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông - một hoàng đế anh hùng, một nhân cách lớn, một danh nhân văn hóa, Phật Tổ Việt Nam - có ý nghĩa giáo dục không chỉ đối với người Việt Nam mà còn với tất cả những ai yêu chuộng hòa bình, sự bao dung, hòa hợp và tình yêu thương đối với con người. Phật Hoàng đã để lại một di sản văn hóa vô giá - đó là tư tưởng, đạo đức và phong cách sống của Ngài - là tinh thần độc lập, dân tộc, hòa giải, hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, được thể hiện rõ trong các trước tác, bài giảng, hành động trong thực tiễn cuộc sống tu tập cũng như tham gia chỉ đạo, quản trị đất nước của Ngài. Phật giáo Trúc Lâm - đỉnh cao của Phật giáo Đại Việt thời Trần - do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập là một trong những biểu hiện sinh động về di sản văn hóa tinh thần mà Ngài để lại cho hậu thế, không chỉ riêng cho người Việt Nam mà còn là tài sản chung của nhân loại;

Hàng nghìn người dân, tăng ni phật tử có mặt tham dự lễ khánh thành cung Trúc Lâm Yên Tử tại khu danh thắng Yên Tử (13/12/2023).
Hàng nghìn người dân, tăng ni phật tử có mặt tham dự lễ khánh thành cung Trúc Lâm Yên Tử tại khu danh thắng Yên Tử (13/12/2023).
Kinh sách, giáo lý, khoa nghi Phật giáo Trúc Lâm cũng là di sản văn hóa phi vật thể quý giá. Do thiên tai, địch họa, kinh sách, giáo lý, khoa nghi Phật giáo Trúc Lâm đến nay còn lại không nhiều, với “Khóa hư lục”, bài tựa “Thiền tông chỉ nam tự”, “Kim Cương tam muội kinh tự” của Trần Thái Tông; “Ngữ lục” của Tuệ Trung Thượng Sỹ; “Thánh Đăng ngữ lục”, “Công văn cách thức” của Trần Nhân Tông; 1 bài tán, 1 bài kệ “Thị tịch”, một bài văn “Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn”, một ngữ lục “Trúc Lâm đại tôn giả thượng tọa thính sư thị chúng” của Pháp Loa; “Công văn tập” của Huyền Quang và một số thư tịch thời Trần khác..., đa phần đã được dịch ra chữ Việt, được in ấn, phát hành. Đó là những di sản văn hóa phi vật thể quý giá giúp chúng ta phần nào hiểu được tư tưởng, tinh thần, giáo lý, giáo luật và giáo lễ, từ đó phác họa lên hình hài, diện mạo của Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần.

Chùa Đồng Yên Tử - ngôi chùa lập kỷ lục Việt Nam về chùa đúc bằng đồng nguyên khối lớn nhất và nằm ở độ cao nhất
Chùa Đồng Yên Tử - ngôi chùa lập kỷ lục Việt Nam về chùa đúc bằng đồng nguyên khối lớn nhất và nằm ở độ cao nhất
Tư tưởng, tinh thần, cách thức tu tập và hành đạo của Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần là di sản văn hóa tinh thần vô giá, vẫn còn truyền lại đến ngày nay. Sau khi phát triển đến cực thịnh trong thời hoàng kim của Nhà Trần với 5 vị vua đầu triều, Phật giáo Trúc Lâm suy dần, nhất là thời thuộc Minh (1407-1427) khi chùa chiền bị phá, tượng Phật bị thiêu hủy, kinh sách bị đốt... Thời Lê (1428-1778), Tây Sơn (1778-1802) và thời Nguyễn (1802-1945), Nho giáo chiếm vị trí cao, tín đồ Phật giáo chủ yếu tu theo pháp môn Tịnh Độ. Tuy vậy, Phật giáo Trúc Lâm, với nòng cốt là dòng Thiền Yên Tử, vẫn tiếp tục tồn tại và vẫn có sức hấp dẫn lớn, được chấn hưng dưới thời Lê Trung Hưng bởi nhiều Thiền sư như: Chân Nguyên (1647-1726), Ngô Thì Nhậm (1746-1803)... Đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, dòng Thiền Yên Tử không còn Tổ truyền thừa, Phật giáo Trúc Lâm bị suy đến cùng cực. Tuy vậy, tư tưởng, tinh thần, cách thức tu tập và hành đạo của Phật giáo Trúc Lâm như một mạch ngầm tồn tại trong nhân gian vẫn còn truyền lại đến ngày nay. Nhận thấy Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần phi thường, có sức thuyết phục, có tinh thần bao dung nội giáo với Tịnh Độ, Mật Tông và Tam giáo (Phật, Nho, Đạo), thực tế và tích cực, nên từ năm 1969, Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ đã chủ trương khôi phục Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt thời Trần, đến nay đã trở thành một trào lưu mạnh mẽ cả trong và ngoài nước.

Một buổi thuyết pháp với phật tử về phật giáo Trúc Lâm.
Một buổi thuyết pháp với phật tử về phật giáo Trúc Lâm.
Các bi ký khắc trên bia đá, những bài minh khắc lên chuông đồng có niên đại thời Trần hiện còn lưu giữ ở các chùa, tháp ở nhiều nơi tại miền Bắc cung cấp nguồn tư liệu có giá trị nhiều mặt. Các tư liệu này giúp cho quá trình nghiên cứu lịch sử văn hóa xã hội thời Trần về những ngôi chùa, Phật điện thời Trần, về Phật giáo Trúc Lâm, việc xây dựng, tu bổ chùa tháp, về sinh hoạt Phật giáo, nơi dựng tượng, nơi san khắc các bộ kinh Phật, nơi diễn ra các đại hội chúng tăng, nơi các quốc sư giảng kinh thuyết pháp...
Các tấm mộc bản của Phật giáo Trúc Lâm trong kho tàng mộc bản ở Tổ đình Vĩnh Nghiêm (với 6.021 mặt khắc bằng chữ Hán - Nôm của 3.050 tấm mộc bản đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thế giới Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương) có nhiều bản khắc trước tác của Tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và các vị cao tăng thuộc nhiều thế hệ của Phật giáo Trúc Lâm. Kiểu chữ được khắc trong mộc bản sách “Thiền tông bản hạnh” đã được Hội bảo tồn di sản chữ Nôm chọn dùng làm mẫu cho font chữ Nôm trên mã Unicode và được cài đặt vào phần mềm máy tính trên thế giới.

Am Ngoạ Vân trên Bảo Đài sơn, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn.
Am Ngoạ Vân trên Bảo Đài sơn, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn.
Phật giáo Trúc Lâm có nhiều Thiền sư, cư sỹ gạo cội như: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Pháp Loa, Huyền Quang... cũng là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Một trong những di sản văn hóa phi vật thể mà Phật giáo Trúc Lâm để lại đến ngày nay là những tác phẩm văn học do họ sáng tác. Điển hình như Phật Hoàng Trần Nhân Tông, trong cuộc đời và sự nghiệp phi thường của mình, Ngài không những để lại cho hậu thế những áng văn ngoại giao bất hủ, mà còn để lại nhiều áng thơ văn trác tuyệt, đậm chất Thiền, chứa chan tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. Bên cạnh các tác phẩm chữ Hán, Ngài còn để lại hai áng thơ Nôm nổi tiếng là: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca không chỉ có giá trị về nội dung tư tưởng Thiền học mà còn đánh dấu một mốc son sáng chói cho sự phát triển tiếng Việt trong lịch sử văn học và ngôn ngữ dân tộc.

Khai hội Xuân Yên Tử 2024.
Khai hội Xuân Yên Tử 2024.
Khẳng định về giá trị và sức sống mãnh liệt của Phật giáo Trúc Lâm, PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho hay: Với những giá trị tích cực trên nhiều mặt, Phật giáo Trúc Lâm đã lan tỏa và phát triển rộng tới các vùng miền của đất nước, thậm chí ra cả các nước trong khu vực, khẳng định giá trị của Thiền phái và Yên Tử “sống” đến tận ngày nay.
Ngày đăng: 16/7/2024
Chỉ đạo thực hiện: BÙI HƯƠNG
Tổ chức sản xuất: BẢO BÌNH
Thực hiện: NHÓM PHÓNG VIÊN
Trình bày: ĐỖ QUANG