
Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh trân trọng đăng toàn văn Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh năm 2023, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 do đồng chí Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh trình bày tại Kỳ họp thường lệ cuối năm 2023 của HĐND tỉnh.
Thực hiện chương trình Kỳ họp, UBND tỉnh đã có Báo cáo số 309 ngày 22/11/2023 và Báo cáo cập nhật bổ sung số 325 ngày 1/12/2023 về tình hình kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành năm 2023, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 trình HĐND tỉnh. Thay mặt UBND tỉnh, tôi xin báo cáo HĐND tỉnh, cử tri và nhân dân những nội dung chủ yếu sau:
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KT-XH NĂM 2023
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 trong bối cảnh có những thuận lợi, tiếp nối đà tăng trưởng hai con số trong 8 năm liên tiếp, nhưng cũng xuất hiện những vấn đề khó khăn mới, sâu sắc hơn; tác động cực đoan của biến đổi khí hậu; ngành than gặp nhiều khó khăn; giá vật tư, nguyên, nhiên liệu đầu vào tăng đã tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân; bên cạnh đó, vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề tồn tại, hạn chế được chỉ ra tại các kết luận giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
Trong bối cảnh đó, Tỉnh tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, xây dựng chương trình, kế hoạch, kịch bản tăng trưởng kinh tế để thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết số 12 của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 128 của HĐND tỉnh và thực hiện chủ đề công tác năm về “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống Nhân dân”. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, ý chí tự lực, tự cường, chung sức, đồng lòng, kiên trì, nỗ lực, chủ động vượt qua khó khăn, thử thách. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm, thực hiện tái cơ cấu kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, du lịch, đầu tư công. Nắm bắt được xu thế, khai thác vị trí địa chiến lược, lợi thế vượt trội, đi trước một bước của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại; quản lý, phân bổ có hiệu quả nguồn lực; quyết liệt triển khai thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, đưa kinh tế, xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển, hoàn thành và vượt 12/12 chỉ tiêu kinh tế, xã hội năm 2023.
1. Kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định; tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tăng 11,03%. Đây là lần đầu tiên Quảng Ninh đứng thứ nhất Vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 3 cả nước, là năm thứ 9 liên tiếp (từ năm 2015 đến nay) đạt mức tăng trưởng kinh tế hai con số, trong đó: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 11,47%; khu vực Dịch vụ tăng 12,53%; thuế sản phẩm tăng 7,92%; khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 4,43%. Quy mô nền kinh tế ước đạt 315.839 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người ước đạt 9.500 USD, tăng 14% so cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 104.217 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 14,2% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong tỉnh ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 12,9% so cùng kỳ. Khách du lịch ước đạt 15,5 triệu lượt, tăng 33,6% so với cùng kỳ, doanh thu du lịch ước đạt 33.480 tỷ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ. Vốn tín dụng huy động tăng 12,6% so với cùng kỳ. Toàn tỉnh có 13/13 địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, tỉnh Quảng Ninh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Hết năm 2023, có 56/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng thêm 5 xã); có 28/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng thêm 5 xã) và có 4/13 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng thêm 2 huyện là Vân Đồn và Hải Hà).
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 55.632 tỷ đồng, tăng 5% dự toán Trung ương giao, tăng 3% dự toán tỉnh, tăng 4% so với cùng kỳ, trong đó: Thu xuất nhập khẩu ước đạt 16.000 tỷ đồng, tăng 39% dự toán Trung ương giao, tăng 33% dự toán Tỉnh giao, bằng 98% cùng kỳ; Thu nội địa ước đạt 39.632 tỷ đồng, bằng 95% dự toán Trung ương giao, bằng 94% dự toán tỉnh, tăng 7% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 29.543 tỷ đồng, bằng 100% dự toán tỉnh, tăng 18% so với cùng kỳ.

2. Thực hiện ba đột phá chiến lược có trọng tâm, trọng điểm. Tỉnh đã hoàn thành, tổ chức gắn biển 36 dự án, công trình trên địa bàn chào mừng kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh, điển hình như: dự án Cải tạo, nâng cấp đường tỉnh 341, dự án mở rộng Bệnh viện Phổi Quảng Ninh, dự án Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, công trình trường THPT Bình Liêu, Cẩm Phả và Quảng La. Đôn đốc, kiểm tra tiến độ thi công các dự án, công trình chuyển tiếp, khởi công mới năm 2023, trọng tâm là các công trình cầu Cửa Lục 3, Cải tạo, nâng cấp Đường tỉnh 342, Đường kết nối đến cảng Vạn Ninh, Đường ven sông đến thị xã Đông Triều, các dự án trường học, nhà ở công nhân, nhà ở xã hội... Công tác chuẩn bị đầu tư, rà soát, phân bổ nguồn vốn, hỗ trợ có mục tiêu cho ngân sách các địa phương được quan tâm, phù hợp với tiến độ, khả năng giải ngân nguồn vốn của các dự án, công trình. Đến ngày 5/12/2023, giải ngân đạt 8.478,2 tỷ đồng, đạt 61,4% kế hoạch vốn giao đầu năm. Dự kiến đến 31/12/2023, giải ngân đạt 96,2% kế hoạch vốn HĐND tỉnh giao đầu năm, đạt trên 95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh tiếp tục được đẩy mạnh. Tỉnh triển khai nhiều giải pháp để tiếp tục giữ vững, cải thiện điểm số của các Chỉ số PCI, Par Index, SIPAS, PAPI; thực hiện miễn giảm một số khoản phí, lệ phí giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến. Cung cấp 1.771 thủ tục hành chính của 3 cấp chính quyền, trong đó cung cấp 1.121 dịch vụ công trực tuyến, với tỷ lệ dịch vụ công toàn trình và một phần đạt 71%. Toàn tỉnh tiếp nhận, xử lý 861.990 hồ sơ thủ tục hành chính, trong đó trên 77% tổng số hồ sơ qua dịch vụ công trực tuyến; tỷ lệ giải quyết đúng hạn, trước hạn đạt 99,7%; có trên 72% tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được số hóa; kết nối, liên thông với 14 cơ sở dữ liệu bộ, ngành Trung ương.
Tổng vốn thu hút đầu tư trong và ngoài nước ước đạt 5 tỷ USD, trong đó: Thu hút vốn đầu tư trong nước đạt 1,9 tỷ USD, vượt 17,3% kế hoạch; thu hút vốn FDI đạt 3,1 tỷ USD, gấp 3,1 lần Kế hoạch năm, hiện tại dẫn đầu cả nước. Đến nay, toàn tỉnh có 174 dự án FDI đến từ 19 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 13,94 tỷ USD; Hồng Kông (Trung Quốc) là đối tác dẫn đầu tổng vốn đầu tư đăng ký (chiếm 38,4%), tiếp theo là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Singapore, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE)... đầu tư vào 16/21 ngành kinh tế quốc dân, dẫn đầu là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 51,73%), tiếp theo là các ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, dịch vụ... Toàn tỉnh có 2.360 doanh nghiệp được thành lập mới, tăng 8% so cùng kỳ, vốn đăng ký đạt 21.000 tỷ đồng; có 500 doanh nghiệp giải thể, tăng 4%, 1.600 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng, tăng 12% so cùng kỳ.
Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số tiếp tục được quan tâm. Đến nay, đã hoàn thiện dự án nhà ở xã hội phục vụ công nhân và chuyên gia khu công nghiệp Đông Mai; cơ bản hoàn thành dự án nhà ở xã hội cho công nhân KCN Sông Khoai; hoàn thành phần thô 2 tòa nhà ở xã hội tại đồi Ngân hàng, thành phố Hạ Long. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ước đạt 86,46%, trong đó tỷ lệ có bằng cấp, chứng chỉ chiếm 50%. Tốc độ năng suất lao động bình quân tăng 13,1%, đạt 458,5 triệu đồng/người/năm.
3. Năm 2023, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục tạo bước chuyển lớn trong phát triển văn hoá - xã hội, con người, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao mức sống và chất lượng sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng miền. Các cấp, các ngành thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, các chế độ chính sách đối với gia đình người có công với Cách mạng, hộ nghèo, hộ khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Toàn tỉnh không còn hộ nghèo theo tiêu chí Trung ương giai đoạn 2021-2025; toàn tỉnh đã ban hành quy định chuẩn nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh (cao gấp 1,4 lần so với toàn quốc). Tổng chi an sinh xã hội ước đạt 1437 tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng kỳ; hỗ trợ, sửa chữ xây mới nhà ở cho 1450 hộ gia đình người có công với cách mạng, với tổng kinh phí 81,7% tỷ đồng. Hoàn thành xóa 441 nhà tạm, nhà ở dột nat phát sinh năm 2023, với số tiền huy động trên 32 tỷ đồng; Tạo việc làm với tăng thêm cho 21.000 lao động, vượt 5% so với kế hoạch. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ước đạt 86,46% (gấp đôi so với bình quân chung cả nước), trong đó tỷ lệ có bằng cấp, chứng chỉ chiếm 50%.
Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Ban hành chính sách tiếp tục hỗ trợ trẻ mầm non, học sinh phổ thông, cơ sở giáo dục ở các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn cho khoảng 13.662 đối tượng, tại 65 cơ sở giáo dục, với kinh phí khoảng trên 31 tỷ đồng/năm; Thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả tích cực, tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT đạt 97,7%, cao hơn so với năm 2022. Có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế; Duy trì vững chắc, đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; đạt chuẩn phổ capak giáo dục tiểu học mức độ 3 (đứng thứ nhất trong tổng số 31 tỉnh, thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3); Chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức độ 2 (đứng thứ nhất trong tổng số 23 tỉnh, thành phố đạt chuẩn THCS mức độ 2). Đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn 90,6% (cao hơn toàn quốc 1,6%). Toàn tỉnh có 90,22% trường đạt chuẩn quốc gia.
Hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em đạt nhiều kết quả. Các chỉ tiêu chương trình mục tiêu về y tees được triển khai thực hiện đảm bảo kế hoạch, hết năm 2023 toàn tỉnh đạt 55 giường bệnh, 15 bác sĩ, 2,7 dược sĩ đại học và 24 điều dưỡng trên 1 vạn dân. Tuổi thọ bình quân của người dân Quảng Ninh ước 73,8 tuổ (bằng tuổi thọ bình quân của toàn quốc). Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,3% dân số toàn tỉnh (toàn quốc là 93,2%)
Công tác văn hóa, thể thao được chú trọng; tổng kết, đánh giá thực hiện Nghị quyết 11 của Tỉnh ủy và xây dựng Nghị quyết số 17 của Tỉnh ủy về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững. Tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh, trọng tâm là Lễ kỷ niệm được tổ chức long trọng, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, an toàn, có sức lan tỏa sâu rộng. Diện mạo một Quảng Ninh giàu đẹp, văn minh, hiện đại, ngày càng rõ nét với 6 đặc trưng “Thiên nhiên tươi đẹp, Văn hóa đặc sắc, Xã hội văn minh, Hành chính minh bạch, Kinh tế phát triển, Nhân dân hạnh phúc”. Hoàn thành hồ sơ khoa học "Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc" trình UNESCO ghi danh Di sản thế giới; Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Năm 2023, đã hoàn thành xếp hạng cho 12 di tích; đến nay, toàn tỉnh có 8 di tích quốc gia đặc biệt, 56 di tích quốc gia, 100 di tích cấp tỉnh được xếp hạng và 466 di tích kiểm kê. Tổ chức 14 giải thể thao quốc gia, 24 giải thể thao cấp tỉnh, đoạt 412 huy chương các loại. Công tác thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình không ngừng đổi mới, kịp thời tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn.
4. Công tác lập, quản lý quy hoạch được tập trung triển khai, Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong Vùng đồng bằng sông Hồng hoàn thành phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và là địa phương đầu tiên trong cả nước hoàn thành phê duyệt Kế hoạch triển khai Quy hoạch tỉnh. Tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung đạt 100%; tỷ lệ phủ kín quy hoạch phân khu đạt khoảng 60%; quy hoạch nông thôn mới đạt 100%; tỷ lệ đô thị hóa ước đạt 69,46%. Quản lý chặt chẽ đất đai, tài nguyên; thường xuyên rà soát, xử lý các dự án chậm tiến độ, vi phạm pháp luật. Quyết định thu hồi đất của 16 tổ chức với diện tích là 206 ha; giao đất cho 45 tổ chức với diện tích 116 ha; gia hạn thời gian sử dụng đất cho 41 tổ chức với diện tích là 1.306 ha; cho 28 tổ chức thuê đất với diện tích 432 ha. Đã rà soát các quy hoạch về bố trí tái định cư, theo đó đến năm 2023 đã bố trí 8.828 suất, dự kiến bố trí 6.863 suất đến năm 2025 và 34.309 suất cho giai đoạn 2026 - 2030; rà soát, bố trí quỹ đất phục vụ cho phát triển giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao đến năm 2030 là 4.717 ha.
5. Công tác xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền tiếp tục được rà soát, sắp xếp, đảm bảo tinh gọn, hiệu quả; đã triển khai kế hoạch thực hiện đề án vị trí việc làm, kế hoạch tinh giản biên chế và phương án tổng thể sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2023-2025. Thanh tra tỉnh và Thanh tra cấp huyện đã triển khai 170 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội; qua công tác thanh tra, kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 17 tỷ đồng, kiến nghị kiểm điểm trách nhiệm đối với 84 tập thể, 149 cá nhân. Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tiếp tục được chú trọng, chủ động phòng ngừa; khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra tại các kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán. Công tác cải cách tư pháp, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, hỗ trợ pháp lý, hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp đạt nhiều kết quả. Các cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong tỉnh đã tiếp 8.803 lượt công dân, tăng 7,8% so cùng kỳ. Có 534 vụ việc khiếu nại, tăng 1,1% so cùng kỳ, 17 vụ việc tố cáo giảm 19% so cùng kỳ. Đã đã giải quyết (cả vụ việc chuyển tiếp) 526/672 vụ việc khiếu nại, đạt tỷ lệ 78,27%, giải quyết 25/27 vụ việc tố cáo, đạt tỷ lệ 92,59%.
6. Quốc phòng, an ninh được củng cố, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; tình hình trật tự an ninh trên tuyến biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và toàn dân cơ bản ổn định. Tội phạm trật tự xã hội xảy ra 604 vụ, giảm 6,5% so với cùng kỳ; tỷ lệ điều tra, làm rõ đạt 80%; bắt giữ, xử lý 551 vụ, 1.360 đối tượng phạm tội về ma túy, giảm 14,3% số vụ so với cùng kỳ. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường, mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả; đón tiếp 42 đoàn khách quốc tế, trong đó có nhiều đoàn khách cấp cao đến thăm và làm việc với tỉnh; vị thế và uy tín của Quảng Ninh được nâng cao.
Với những kết quả quan trọng, nổi bật trong năm 2023 và nhìn lại từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026 đến nay, với những chỉ tiêu và minh chứng thực tiễn, có thể khẳng định Quảng Ninh đã tận dụng tốt cơ hội, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức, đoàn kết, giữ vững sự ổn định, đổi mới và phát triển ngày càng bền vững, hiệu quả hơn; tiếp tục giữ vững vị trí là một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn đứng trước nhiều tồn tại, hạn chế: Lĩnh vực khai khoáng, trọng tâm là ngành than còn gặp vướng mắc về quy hoạch, cấp phép. Phát triển một số ngành kinh tế biển và thu hút đầu tư vào một số khu kinh tế, khu công nghiệp chưa có đột phá mới. Việc triển khai một số dự án trọng điểm về du lịch, dịch vụ ngưng trệ; thu hút các dự án mới, phát triển sản phẩm du lịch, dịch vụ mới chưa có sự bứt phá; du lịch quốc tế phục hồi chậm. Nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng, có kỹ thuật còn thiếu hụt. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng, giải thể tăng. Một số chỉ tiêu thu ngân sách dự kiến không hoàn thành dự toán, nhất là chỉ tiêu thu tiền sử dụng đất, ảnh hưởng đến công tác tác giải ngân vốn đầu tư công. Công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng và thi công một số dự án còn chậm; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công còn hạn chế chưa đạt được như kỳ vọng. Tình hình tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại, tai nạn giao thông, tai nạn lao động, dịch bệnh còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp.
Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song chủ yếu là do: Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, giá cả năng lượng, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao; thị trường bất động sản trầm lắng; một số địa phương gặp khó khăn trong bố trí vốn để thực hiện các dự án đầu tư công. Công tác tổ chức triển khai thực hiện, phối hợp trong giải quyết, xử lý công việc ở một số ngành, lĩnh vực, địa phương còn hạn chế, thiếu tính chủ động, kéo dài thời gian; có việc chưa chặt chẽ, kịp thời, chưa làm hết trách nhiệm; có tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, thiếu quyết tâm, quyết liệt trong một số cán bộ, công chức, viên chức và người đứng đầu đã tác động, ảnh hưởng đến kết quả nhiệm vụ năm 2023.
II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRIỂN KT-XH NĂM 2024
Năm 2024, năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Tỉnh đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen như mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng trên hai con số trong khi quy mô nền kinh tế rất lớn, sự thiếu hụt dân số, lao động có kỹ năng và nguồn nhân lực chất lượng cao, tiềm lực khoa học công nghệ còn hạn chế; hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cùng với những khó khăn chung của ngành than về quy hoạch, đất đai, hạ tầng khu công nghiệp, mặt bằng sạch, thiên tai, dịch bệnh, an ninh mạng... sẽ tác động trực tiếp đến thực hiện nhiệm vụ năm 2024. Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Nghị quyết số 20 ngày 27/11/2023 của Tỉnh ủy về phương hướng nhiệm vụ năm 2024 và chủ đề công tác năm là “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”, UBND tỉnh xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 như sau:
1. Mục tiêu tổng quát
Tăng cường xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, chủ động, tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo. Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; thúc đẩy phát triển theo chiều sâu, bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm, toàn diện; đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững đà tăng trưởng bền vững hai con số. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược. Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, nâng cao chất lượng mọi mặt đời sống của Nhân dân. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường; phát triển đô thị bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Quyết liệt phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
Về kinh tế: (1) Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt trên 10%. (2) Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 55.600 tỷ đồng, trong đó thu xuất nhập khẩu đạt trên 13.000 tỷ đồng và thu nội địa phấn đấu đạt số thu cao nhất. (3) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng trên 10%, trọng điểm là thu hút vốn FDI ít nhất 3 tỷ USD; phát triển mới ít nhất 2.000 doanh nghiệp. (4) Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 11%. (5) Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 73%. (6) Giữ vững vị trí nhóm đứng đầu cả nước về các Chỉ số PCI, PAR Index, SIPAS và PAPI.
Về xã hội: (7) Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 87%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ 51%; tạo ra khoảng 30.000 việc làm tăng thêm. (8) Có trên 91% trường đạt chuẩn quốc gia; đạt 57,2 giường bệnh, 15 bác sỹ, 2,8 dược sỹ đại học và trên 25 điều dưỡng/1 vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95,5% dân số. (9) Toàn tỉnh không còn hộ nghèo và giảm 50% hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng tại Nghị quyết số 13 của HĐND tỉnh.
Về môi trường: (10) Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 98,3%; tỷ lệ hộ gia đình ở nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh đạt trên 99,9% (trong đó, tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng nước sạch đáp ứng Quy chuẩn năm 2018 đạt trên 70%). (11) Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải rắn sinh hoạt đô thị và các xã đảo, các xã có hoạt động du lịch, dịch vụ bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 97,6%. (12) Giữ vững tỷ lệ che phủ rừng đạt 55% và nâng cao chất lượng rừng.
3. Nhóm các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
3.1. Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trên nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao, yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh cơ cấu lại khu vực công nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo theo tinh thần Nghị quyết số 01 của Tỉnh ủy; thu hút đầu tư các nhà đầu tư có thương hiệu toàn cầu, có năng lực tài chính lớn, có khả năng đầu tư ổn định, lâu dài, có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao vào các khu công nghiệp, khu kinh tế, nhất là những khu công nghiệp có hạ tầng đồng bộ như: Đông Mai, Sông Khoai, Bắc Tiền Phong, Việt Hưng, Hải Hà. Phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, trọng tâm là ngành Than; tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp đi vào hoạt động sớm nhất, bổ sung năng lực tăng thêm, tăng năng suất, sản lượng các sản phẩm.
Phát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại ngày càng giữ vai trò chủ đạo; du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn gắn với phát triển kinh tế biển. Xúc tiến, thu hút đầu tư các dự án du lịch, dịch vụ, công nghiệp văn hóa, các khu resort, các sản phẩm du lịch biển đảo theo hướng chất lượng cao tại các địa phương: Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái, Cô Tô, Đầm Hà, Tiên Yên. Phát triển mạnh thị trường khách du lịch Đông Bắc Á, Trung Quốc; phấn đấu thu hút 17 triệu lượt khách, trong đó có 3 triệu lượt khách quốc tế. Tập trung phát triển dịch vụ logistics và vận tải đa phương thức, dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử, thương mại biên giới, xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế đêm, kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh tế mới, hiệu quả. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn gắn với xây dựng nông thôn mới hiện đại, nông dân văn minh, 03 chương trình mục tiêu quốc gia và Nghị quyết số 06 của Tỉnh ủy; phát huy lợi thế biển, khai thác và phát triển nghề nuôi biển, chế biến đồng bộ, hiện đại.
3.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách và đầu tư công. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính, ngân sách. Khai thác hiệu quả các nguồn thu còn dư địa, tiềm năng; tăng tỷ trọng các nguồn thu bền vững từ thuế, phí, lệ phí. Triệt để tiết kiệm chi thường xuyên để bổ sung chi đầu tư phát triển, tăng chi bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Khắc phục các tồn tại, hạn chế, yếu kém trong công tác chuẩn bị đầu tư công. Tập trung hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư, bảo đảm tiến độ thi công để giải ngân nguồn vốn ngay từ đầu năm. Xử lý nghiêm tình trạng đầu năm ghi vốn - giữa năm điều vốn - cuối năm trả vốn của các đơn vị sử dụng vốn đầu tư công; xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, “dưới duyệt - trên cấp”. Phấn đấu đến 31/12/2024, giải ngân 100% kế hoạch vốn bố trí đầu năm, trong đó hết Quý III/2024 giải ngân đạt ít nhất 80% kế hoạch đầu năm.
3.3. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, trong đó kiên trì thực hiện không gian phát triển một tâm, hai tuyến đa chiều, các mũi đột phá, ba vùng động lực, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực hợp pháp của xã hội, nhất là thông qua hình thức đối tác công - tư (PPP), thúc đẩy liên kết nội vùng, liên kết vùng. Hoàn thành đúng tiến độ các công trình giao thông chiến lược như: Đường ven sông đến thị xã Đông Triều, đường tỉnh 342, các dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục, nhà ở công nhân, nhà ở xã hội. Nâng cao chất lượng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rà soát, đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền. Phát triển doanh nghiệp và khu vực kinh tế tư nhân để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, khơi thông điểm nghẽn. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo các bậc học, tăng tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia; ứng dụng khoa học và công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Thu hút và phát triển nhân tài, nhân lực kỹ thuật cao, có kỹ năng tay nghề; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, lao động.
3.4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 17 của Tỉnh ủy về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững. Bảo đảm an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách cho người có công với cách mạng, gia đình chính sách, đối tượng trợ cấp. Chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở y tế, bảo đảm công tác khám chữa bệnh, thuốc, vật tư y tế. Bảo đảm nhà ở có chất lượng cho mọi người dân; tiếp tục xóa bỏ hoàn toàn nhà tạm, nhà dột nát mới phát sinh cho các đối tượng là người nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Cải thiện chất lượng môi trường và các điều kiện sống của Nhân dân; đáp ứng nhu cầu thiết yếu về nước sạch sinh hoạt, nhất là người dân vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
3.5. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Tập trung triển khai có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh gắn với Quy hoạch tổng thể quốc gia. Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất đai, tài nguyên, nhất là quỹ đất được tạo ra bởi các dự án, công trình hạ tầng giao thông động lực của tỉnh; kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ, vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10 và Nghị quyết số 16 của Tỉnh ủy. Chủ động có biện pháp phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước.
3.6. Xây dựng chính quyền địa phương các cấp liêm chính, phục vụ, thực sự “của dân, do dân, vì dân”, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực quản trị chính quyền địa phương hiện đại, tự chủ, năng động, hiệu quả. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, chấn chỉnh một bộ phận cán bộ có biểu hiện sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh, trì trệ. Thực hiện đồng bộ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng, chống tham nhũng, tiêu cục, lãng phí và khắc phục các hạn chế đã được chỉ ra tại các kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán. Thực hiện tốt công tác tư pháp, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị cử tri.
3.7. Đảm bảo công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; giữ vững chủ quyền biên giới đất liền, biển đảo quốc gia; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm. Triển khai hiệu quả các giải pháp đảm bảo an toàn giao thông, kiềm chế, giảm thiệu tai nạn giao thông, tai nạn lao động, phòng chống cháy, nổ. Chủ động triển khai có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế; xây dựng biên giới hoàn bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác phát triển. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.