Hội thảo “Nguồn lực và động lực cho phục hồi và phát triển KT-XH trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 tầm nhìn quốc gia và hành động địa phương” do Tạp chí Cộng sản phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Ninh đã nhận được nhiều ý kiến tham gia đóng góp của các học giả, chuyên gia kinh tế, lãnh đạo các tỉnh, thành trong cả nước. Phóng viên Trung tâm Truyền thông tỉnh đã ghi lại được một số tham luận quan trọng tại hội nghị.
“Tăng năng suất và đổi mới sáng tạo là hai nhân tố quan trọng tạo ra những động lực và nguồn lực phát triển mới trong thời kỳ hậu Covid-19”GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương
Năm 2021 có thể được coi là năm rất khó khăn đối với nền kinh tế Việt nam. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt 2,58% là mức thấp nhất trong khoảng ba thập niên vừa qua. Nguyên nhân là do chúng ta tập trung để ngăn chặn, kiểm soát sự lây lan và tác hại nghiêm trọng của đại dịch Covid-19. Chúng ta đã phải tiến hành các đợt phong tỏa trên diện rộng và kéo dài dẫn đến đứt gãy, gián đoạn nhiều hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là tại nhiều tỉnh, thành phố là đầu tàu kinh tế, trọng điểm sản xuất công nghiệp, dịch vụ của cả nước như: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang,…
Tuy nhiên, nhờ sự điều chỉnh kịp thời, đúng đắn của Trung ương sang chủ trương: “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh”, được cụ thể hoá bằng Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ; đặc biệt, với việc thực hiện hiệu quả qui định 5K, cùng chiến lược tiêm chủng vắc-xin thần tốc; khắc phục các đứt gãy, gián đoạn trong sản xuất – kinh doanh; triển khai các gói an sinh xã hội hỗ trợ người lao động kịp thời theo phương châm “an sinh, an ninh, an toàn và an dân”, các hoạt động kinh tế - xã hội đã cơ bản được phục hồi, khởi sắc rõ rệt kể từ quý 4/2021. Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất để chuyển sang giai đoạn bình thường mới, hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra.
Để huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, xác lập động lực mới cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chúng ta cần phải tập trung tới việc đáp ứng xu hướng toàn cầu, tầm nhìn quốc gia và hành động địa phương. Chúng ta cần nhận diện đúng, dự báo trúng và bắt nhịp nhanh với các xu hướng toàn cầu, hiểu rõ phương châm, cách tiếp cận của những nước đi sau, những nền kinh tế có quy mô nhỏ và vừa. Từ đó, khai thác tốt nhất những động lực và nguồn lực bên ngoài, không chỉ để khắc phục những hệ luỵ của đại dịch COVID-19 mà còn phải kiến tạo được những nền tảng cho sự phát triển trong trung và dài hạn.
Cách tiếp cận “Xu hướng toàn cầu - tầm nhìn quốc gia - hành động địa phương” cho chúng ta thấy rằng, tăng năng suất và đổi mới sáng tạo là hai nhân tố quan trọng tạo ra những động lực và nguồn lực phát triển mới trong thời kỳ hậu Covid-19. Bởi vậy, thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương cần phải nhận diện được cơ hội, thách thức và đặc điểm nguồn lực và động lực mới cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh. Cần có cách nhìn nhận và xử lý đúng đắn vấn đề nguồn lực và động lực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội từ phương diện quản trị địa phương gắn với thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng, tổ chức lãnh thổ. Tập trung nâng cao chất lượng thể chế địa phương trong kiến tạo, chuyển hóa, tái tạo, giải phóng tối đa các nguồn lực, biến tiềm năng thành hiện thực, biến thách thức thành cơ hội phát triển. Thực hiện sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực và kết nối giữa nguồn lực của khu vực nhà nước với nguồn lực của khu vực ngoài nhà nước; giữa nguồn lực trung ương và nguồn lực tại chỗ, nhất là nguồn lực trong nhân dân để nắm bắt, chuyển hóa, tái tạo, tận dụng các loại nguồn lực mới. Đặc biệt, cần phải có sự kết hợp giữa phát huy động lực lợi ích kinh tế với động lực giá trị tinh thần, nhất là ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên và bản sắc riêng có của từng địa phương… Để từ đó, tạo được hiệu quả thiết thực trong chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Khai thác, phát huy và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực tại chỗ đặt trong tổng thể mô hình quản trị địa phương Quảng Ninh trước bối cảnh thích ứng an toànĐồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh
Nguồn lực và động lực cho phát triển là vấn đề rất rộng lớn, có quan hệ chặt chẽ, chuyển hoá cho nhau. Từ thực tiễn quản trị địa phương Quảng Ninh, chúng tôi thấy cần phát biểu mấy vấn đề sau đây:
Nguồn lực chỉ được khơi thông, biến tiềm năng thành hiện thực khi nhận diện được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, mâu thuẫn, thách thức, định vị lại Quảng Ninh trong mối tương quan quốc gia, quốc tế, trên cơ sở đó, Tỉnh rất coi trọng việc lập quy hoạch chiến lược, can thiệp thể chế để tổ chức lại không gian lãnh thổ, kiến tạo hành lang phát triển mới, thúc đẩy hợp tác và liên kết lãnh thổ; xác định các đột phá chiến lược, các trọng tâm, trọng điểm với tầm nhìn dài hạn để huy động nguồn lực theo phương châm nội lực là căn bản, ngoại lực là quan trọng, kết hợp chặt chẽ nội lực với ngoại lực tạo ra nguồn lực tổng hợp tối ưu; lấy "đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư" nâng cao hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư và xã hội hoá; ngân sách tập trung cho an sinh xã hội và các công trình có tính chất động lực lan tỏa.
Đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại bảo đảm liên thông, tổng thể, trọng tâm ưu tiên là phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, công nghệ thông tin, viễn thông, cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng logistics, hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế, hạ tầng đô thị. Trong đó, Quảng Ninh luôn luôn chủ động, tích cực cùng các tỉnh, thành lân cận (Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang, Lạng Sơn) tìm cách kết nối chia sẻ nguồn lực chung, tập trung đầu tư hoàn thiện các công trình hạ tầng giao thông động lực chiến lược, kiến tạo các hành lang phát triển mới, khơi thông, kết nối các nguồn lực phát triển.
Gắn với kiên trì tổ chức lại không gian phát triển theo “một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực” nhằm tối ưu hóa, phát huy hiệu quả sau đầu tư của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược, đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng, nội vùng… Sáp nhập địa giới hành chính cấp huyện (Hoành Bồ - Hạ Long), cấp xã để tổ chức lại không gian phát triển tạo ra động lực và nguồn lực mới.
Bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình, luôn luôn đổi mới tư duy phát triển nhanh, bền vững, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biên giới quốc gia; tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá để chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” thúc đẩy tăng trưởng xanh theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập, cơ hội mới và công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang lại và tham gia sâu rộng, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu... kết hợp chặt chẽ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp theo hướng: Phát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại ngày càng giữ vai trò chủ đạo; du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (phấn đấu phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc tế, đầu tầu du lịch của quốc gia).
Phát triển công nghiệp xanh, tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn; công nghiệp năng lượng thân thiện với môi trường. Phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, trọng điểm là ngành Than góp phần bảo đảm an ninh năng lượng theo quy hoạch. Phát triển kinh tế biển, Quảng Ninh cùng với Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ trung chuyển của khu vực Đông Nam Á, động lực phát triển của Vùng và cả nước. Phát triển nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông thôn mới theo hướng giàu đẹp - nghĩa tình - văn minh - hiện đại - sinh thái, phục hồi sản xuất kinh doanh; kết hợp chặt chẽ giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc; vận dụng cơ chế thị trường để chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành nguồn lực văn hóa, “vốn hóa” các giá trị văn hóa địa phương để hình thành nên các sản phẩm văn hóa đa dạng, độc đáo phục vụ du lịch - dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm OCOP, các sản phẩm du lịch cộng đồng.
Phát triển doanh nghiệp và phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản phẩm chủ lực và xây dựng thương hiệu của Tỉnh, tạo sự liên kết giữa các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ mới, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đẩy mạnh chuyển đổi số; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái.
Con người vừa là nguồn lực, vừa là động lực, bảo đảm cho nguồn lực chuyển thành động lực cho phát triển. Vì thế, một trong những khâu đột phá của giai đoạn 2021 - 2025 được tỉnh Quảng Ninh xác định là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng gắn với nhanh chóng tăng quy mô và nâng cao chất lượng dân số đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh là khâu đột phá, cấp bách; gắn chặt với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị là nhân tố quyết định sự thành công trước mắt và chiến lược.
Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cần nhanh chóng có cơ chế, chính sách hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp phục hồi nhân lực ngành du lịch đang bị đứt gãy sau hơn 02 năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, rất cần sự phối hợp liên vùng.
Xây dựng nền quản trị địa phương hiện đại, tự chủ, năng động, hiệu quả. Đặc biệt là tập trung cải cách nền hành chính quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển, phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội; giảm tối đa rủi ro pháp lý, chi phí hành chính và tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, công khai, minh bạch, tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng; nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chất lượng thực thi chính sách, pháp luật; nhiều năm liền đã quyết tâm, giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) và Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI).
Gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa người dân - nhà nước - nhà đầu tư (doanh nghiệp) trong tất cả các quyết sách phát triển, không ngừng kiến tạo, củng cố niềm tin của Nhân dân, bởi đó là động lực to lớn và cũng là nguồn lực vô tận.
Nhờ khai thác, phát huy và tối ưu hóa hiệu quả nguồn lực và động lực, tỉnh Quảng Ninh giành được những kết quả quan trọng, tạo được những thành tựu bứt phá, ấn tượng trong thời gian qua. Đặc biệt, năm 2020 và 2021, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn, Quảng Ninh đã nâng cao năng lực quản trị xã hội, quản lý nhà nước, quản trị địa phương, năng lực thích ứng với sự thay đổi, lãnh đạo, quản trị rủi ro, chuyển nhanh từ nhận thức đến hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, ứng phó kịp thời, linh hoạt, nhạy bén, quyết đoán, kịp thời và xử lý có hiệu quả với mọi tình huống nảy sinh, hoàn thành “mục tiêu kép”; giữ vững đà tăng trưởng GRDP trên hai con số trong 6 năm liên tiếp (2016 - 2021) và vai trò, vị trí của cực tăng trưởng toàn diện của phía Bắc.
Qua quá trình xây dựng, phát triển của tỉnh Quảng Ninh thời gian qua, từ thực tiễn thực thi các chủ trương, chính sách, chúng tôi nhận thấy việc khai thác, phát huy và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực, đặt trong quan hệ với tạo động lực cần được chia sẻ kinh nghiệm giữa các địa phương và tổng kết ở tầm lý luận để chỉ đạo vĩ mô nói chung và đóng góp vào quản trị địa phương nói riêng.
Kinh tế số là động lực tăng trưởng quan trọng và một số kiến nghị với Quảng NinhGS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường Đại học Kinh tế quốc dân, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng
Ba năm gần đây nhất, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 3 địa phương đứng đầu về chỉ số xếp hạng cạnh tranh và chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin. Từ năm 2017-2019, Quảng Ninh dẫn đầu chỉ số PCI; đứng thứ 3 chỉ số PAPI, chỉ số ICT năm 2019. Năm 2020 là năm đầu tiên Bộ Thông tin và Truyền thông tin áp dụng chỉ số chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quảng Ninh đã xếp thứ 4 trong bảng xếp hạng này.
Từ nền tảng của chính quyền điện tử, năm 2016, Quảng Ninh đã triển khai Đề án xây dựng thành phố thông minh và những nhiệm vụ, giải pháp để cụ thể hóa các mục tiêu về thành phố thông minh bắt đầu được triển khai. Quảng Ninh được đánh giá là một trong những địa phương có mô hình kiến trúc chính quyền điện tử phù hợp với hướng dẫn của các bộ, ngành chuyên môn và sát với thực tế giai đoạn mới.
Đề án chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 là một trong 15 đề án trọng tâm và đã đưa vào nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV và Chương trình hành động số 01/CTr-TU ngày 9/10/2020 của Tỉnh ủy. Đề án chuyển đổi số tỉnh Quảng Ninh với cách tiếp cận bám sát 6 quan điểm lớn được thể hiện trong chương trình chuyển đổi số quốc gia theo 3 trục (chính quyền số, kinh tế số và xã hội số). Trong đó kinh tế số được xác định là đột phá, cần được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành với mục tiêu đặt ra đến năm 2025 kinh tế số phải đạt 20% GRDP và đến năm 2030, kinh tế số phải đạt 30% GRDP của tỉnh, là một trong những chỉ tiêu quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch mô hình phát triển từ “nâu” sang “xanh”.
Từ kết quả triển khai ở Quảng Ninh, tôi có một số khuyến nghị, Quảng Ninh cần xác định mục tiêu tổng quát về chuyển đổi số là để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo nền tảng vững chắc để Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, chuyển từ phương thức phát triển “nâu” sang “xanh”.
Các mục tiêu trong Đề án đối với Quảng Ninh cần đạt mức cao hơn múc trung bình của toàn quốc (kinh tế số phải đạt 20% GRDP năm 2025 và đến năm 2030, kinh tế số phải đạt 30% GRDP của tỉnh), trên cơ sở đó có các mục tiêu tăng trưởng của các ngành và lĩnh vực, tạo ra các giá trị tăng trưởng mới từ kinh tế số, tận dụng cơ hội từ thách thức Covid-19 để triển khai xã hội số. Đồng thời Quảng Ninh gắn chuyển đổi số với các yếu tố bảo đảm an toàn, an ninh mạng và phấn đấu đưa Quảng Ninh đi đầu về bảo đảm an toàn an ninh mạng.
Quảng Ninh cần ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của mình, mang lại các giá trị mới, thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển KT-XH, gồm: y tế, giáo dục, du lịch, giao thông vận tải và logistics, sản xuất công nghiệp, tài chính - ngân hàng, tài nguyên môi trường, năng lượng, nông nghiệp, báo chí truyền thông, an ninh trật tự... Cần xác định tốc độ tăng trưởng về kinh tế số và năng suất lao động trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể của tỉnh.
Quảng Ninh cần chuyển nhanh từ chính quyền điện tử sang chính quyền số và cách tiếp cận triển khai chuyển đổi số toàn diện của tỉnh theo 3 trục (chính quyền số, kinh tế số và xã hội số). Cần huy động và có nhiệm vụ cụ thể cho 6 chủ thể sẽ tham gia chuyển đổi số để tăng cường tính toàn diện gồm cơ quan Đảng, MTTQ, khối đoàn thể, khối chính quyền, doanh nghiệp và người dân. Trong đó điểm nhấn của Quảng Ninh trong chuyển đổi số được xác định là chuyển đổi số phải đi đầu trong các cơ quan Đảng, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Cần kiên trì và quyết liệt triển khai thực hiện Đề án thành phố thông minh. Đến nay, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phần mềm nền tảng cho thành phố thông minh; xây dựng hệ thống ứng dụng thông minh trên các lĩnh vực hỗ trợ công tác quản lý, điều hành, đa dạng hóa dịch vụ thông minh, giao thông thông minh, du lịch thông minh, an ninh trật tự..., hướng tới lấy con người làm trung tâm trong phát triển các dịch vụ đô thị thông minh. Cùng với đó, Quảng Ninh cần xác định phải tập trung xây dựng chính quyền số; ưu tiên việc xây dựng dữ liệu nền tảng; nguồn lực thực hiện theo hình thức hợp tác công - tư.
Thực hiện thành công Đề án chuyển đổi số sẽ là một đóng góp quan trọng để Quảng Ninh trở thành một tỉnh văn minh, giàu mạnh, là môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống với những giá trị thiết thực cho người dân.
Chính sách tài khóa với mục tiêu phục hồi và phát triển KT-XH Việt Nam sau đại dịch Covid-19.TS Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Bộ phận giúp việc Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ
Tại Việt Nam, 4 đợt dịch Covid-19 đã bùng phát dịch với quy mô, địa bàn và mức độ lây lan đợt sau có xu hướng phức tạp hơn đợt trước. Tính tới cuối năm 2021, cả nước có hơn 1,7 triệu ca mắc và trên 32.000 ca tử vong. Đảng, Nhà nước và toàn dân đã nỗ lực triển khai đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về phòng, chống dịch, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân vừa cố gắng duy trì hoạt động kinh tế, xã hội. Sau khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi cả nước và tỷ lệ tiêm chủng bước đầu đạt được mục tiêu đề ra, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 về Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” để tạo bước chuyển quan trọng trong công tác phòng, chống dịch và phát triển KT-XH. Nghị quyết số 128/NQ-CP là một nghị quyết mở đường cho các địa phương, doanh nghiệp, người dân thay đổi nhận thức và hành động phù hợp với thực tiễn cuộc sống nhưng đồng thời đây cũng là một nghị quyết được thực hiện trên nguyên tắc nhất quán trên phạm vi toàn quốc.
Cùng với Chính phủ, các địa phương đã có nhiều chính sách hỗ trợ kịp thời giúp giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp và nhân dân. Ước tính năm 2021, các giải pháp tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 có quy mô trên 185.000 tỷ đồng, tương đương 2,2% GDP.
Trong năm 2022-2023, quy mô thực hiện dự kiến của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế có quy mô lên tới 360.000 tỷ đồng, trong đó nhu cầu huy động vốn cho ngân sách năm 2022 là 84.000 tỷ đồng và năm 2023 là 156.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, mỗi năm, Chính phủ phải huy động khoảng 550.000 tỷ đồng theo dự toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê duyệt nên áp lực đối với nhiệm vụ huy động vốn là rất lớn.
Để đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ quốc gia khi phát hành trái phiếu chính phủ và vay nợ nước ngoài trong năm 2022 và 2023 để tài trợ cho các chương trình chỉ tiêu quy mô lớn, Chính phủ sẽ phải xử lý một số vấn đề sau: Thứ nhất, lo ngại làm gia tăng nợ công và rủi ro vỡ nợ công; thứ hai, nguy cơ tăng rủi ro nợ nước ngoài; thứ ba, các chủ thể kinh tế sẽ gia tăng đầu tư vào trái phiếu chính phủ trong các năm 2022 - 2023; thứ tư, lạm phát; thứ năm, các quy định của pháp luật đối với quản lý ngân sách nhà nước và nợ công.
Cần rút ra bài học kinh nghiệm, kế thừa và phát huy những mô hình phục hồi kinh tế hiệu quả trên thế giới.PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương
Năm 2020, đại dịch Covid-19 đã khiến cho kinh tế thế giới, vốn đang phục hồi mong manh, rơi vào đợt suy thoái lớn với mức giảm 3,1% theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế (IMMF). Để ứng phó với đại dịch và phục hồi kinh tế mạnh mẽ, nhiều quốc gia đã đưa ra những nhận định và chiến lược phát triển “song hành” hiệu quả như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan… Nhìn từ những thực tế đó, để phục hồi và phát triển kinh tế, chúng ta cần phải tập trung thực hiện việc kiềm chế và kiểm soát Covid-19 thông qua việc đẩy mạnh tiêm Vắc-xin và xét nghiệm là điều kiện tiên quyết để hồi phục các hoạt động kinh tế cũng như phục hồi tăng trưởng.
Trong bối cảnh “bình thường mới”, phục hồi và phát triển kinh tế, tôi thấy chúng ta cũng cần phải có tư duy mới và tầm nhìn chiến lược mới. Xác định rõ đại dịch Covid-19 không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội và động lực để chúng ta tập trung nhìn lại và vươn lên phát triển mạnh mẽ hơn. Trong đó, cần tập trung vào việc kiềm chế và kiểm soát Covid-19 thông qua việc đẩy nhanh tiêm Vắc-xin và xét nghiệm là điều kiện tiên quyết để hồi sinh các hoạt động kinh tế cũng như phục hồi tăng trưởng. Quảng Ninh là một trong những tỉnh thực hiện rất tốt việc bao phủ vắc-xin. Theo ghi nhận, đến nay kết quả tiêm 3 mũi vắc-xin phòng Covid-19 cho người từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%. Tiêm đủ 2 mũi vắc-xin phòng Covid-19 cho người từ 12 đến dưới 18 tuổi đạt gần 99%. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để Quảng Ninh phát triển, phục hồi nền kinh tế. Bởi việc phủ rộng vắc-xin có thể được xem là yếu tố then chốt, quyết định cho việc tiến tới điều kiện phục hồi kinh tế không chỉ ở Quảng Ninh mà còn là của cả nước.
Đồng thời, chúng ta cũng cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững hơn, bao trùm hơn, xanh hơn. Thực hiện chống nguy cơ tụt hậu trên cơ sở đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, xây dựng xã hội số, chính phủ số và nền kinh tế số. Củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội trên cơ sở lấy con người làm trung tâm. Đẩy mạnh việc áp dụng những mô hình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội khác nhau ở các nước khác nhau trên cơ sở học hỏi và áp dụng hiệu quả, an toàn. Đặc biệt, chúng ta cũng cần xây dựng được một tầm nhìn và chiến lược phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội trong trạng thái “bình thường mới” trên cơ sở đảm bảo an toàn, đảm bảo tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.
Tạo đột phá về thể chế, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, phục hồi và phát triển kinh tế.Ông Lê Xuân Định, Thứ Trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
Trong bối cảnh nhiều thách thức như hiện nay, để thích ứng linh hoạt, an toàn và kiểm soát hiệu quả đại dịch Covid-19, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là yêu cầu cấp thiết được đặt ra nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, phục hồi và phát triển kinh tế của cả nước. Yêu cầu này, đòi hỏi cần chú trọng đẩy mạnh đổi mới, tạo đột phá trong việc thực hiện các thể chế có liên quan.
Đối với Quảng Ninh, trong chặng đường phát triển vừa qua, có thể thấy vai trò của Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đóng góp tích cực vào sự phát triển toàn diện kinh tế- xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Với quan điểm chuyển đổi phương thức phát triển từ nâu sang xanh theo hướng bền vững và xác định khoa học công nghệ sẽ ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng để tạo ra bứt phá. Miinh chứng rõ nét nhất là những thành tựu bứt phá đã được ghi nhận trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, y dược, kỹ thuật và công nghệ, ngành than, thương mại điện tử, giáo dục, du lịch… Chúng tôi ghi nhận và đánh giá rất cao những nỗ lực của Quảng Ninh trong việc đưa khoa học công nghệ vào việc phát triển kinh tế, xã hội.
Hiện nay, chủ trương phục hồi và phát triển kinh tế ở nước ta trong bối cảnh kiểm soát hiệu quả dịch bệnh vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, thể hiện sự chủ động, ứng phó linh hoạt với những biến động trong nước và thế giới, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu. Thực chất, phục hồi và phát triển kinh tế chính là thúc đẩy nhanh hơn, mạnh mẽ hơn đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn hiện nay. Từ những yêu cầu đặt ra của đổi mới mô hình tăng trưởng, phục hồi phát triển kinh tế, có thể định hình các nội dung cơ bản trong phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của nước ta cần tập trung vào những nội dung về: Đổi mới sáng tạo, hình thành các dự án khoa học công nghệ cấp quốc gia lớn trong một số lĩnh vực trọng điểm; phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp; đổi mới cơ cấu hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ gắn với định hướng ưu tiên phát triển quốc gia, ngành, lĩnh vực; tăng cường hợp tác quốc tế nhằm thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, phục hồi phát triển kinh tế…
Cùng với đó, chúng ta cần cho phép triển khai các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các dự án khoa học, công nghệ. Đổi mới cơ chế, chính sạch pháp luật về đầu tư, đầu tư công, mua sắm công…để khuyến khích phát triển hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thực hiện Rà soát, sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập trong xây dựng cơ cấu tổ chức, tuyển dụng, sử dụng nhân lực, sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ. Đổi mới chế độ quản lý tài chính, thanh quyết toán, chấp nhận nguyên tắc rủi ro trong khoa học; Rà soát, sửa đổi đồng bộ giữa các quy định của pháp luật về thuế, tài chính, tín dụng và quy định pháp luật về khoa học và công nghệ để triển khai hiệu quả các cơ chế ưu đãi đối với doanh nghiệp cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ. Hoàn thiện chính sách về nhập công nghệ để đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Đổi mới toàn diện hoạt động quản lý, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp… Qua đó, sẽ góp phần phát huy vai trò khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong đổi mới mô hình tăng trưởng, phục hồi và phát triển kinh tế đất nước trong thời gian trước mắt và lâu dài.
Tổ chức lại không gian lãnh thổ, kiến tạo các hành lang phát triển, thúc đẩy hợp tác và liên kết lãnh thổ để sử dụng hiệu quả nguồn lực.Ông Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng
Với 6 vùng kinh tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm và lợi thế phát triển kinh tế biện, khu kinh tế cửa khẩu và hệ thông giao thông xuyên Á, nằm trong trục chính của hành lang kinh tế Đông- Tây cho thấy Việt Nam đang có nhiều tiềm năng và lợi thế so sánh trong khu vực. Liên kết kinh tế, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Liên kết vùng không chỉ giúp tăng cường lợi thế cạnh tranh mà còn tạo điều kiện phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân.
Nhìn từ các làm của Quảng Ninh, mặc dù trải qua những ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, nhưng Quảng Ninh vần có những bứt phá “ngoạn mục” trong phát triển. Điển hình nhất là trong 3 năm liền, Quảng Ninh đứng đầu cả nước trong danh sách xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Thu nhập bình quân đầu người đã vượt 6.700 USD, gấp đôi mức trung bình của cả nước, trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của khu vực phía Bắc. Quảng Ninh có vị trí rất quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước. Với lợi thế của mình, tỉnh Quảng Ninh đã nhận thấy được vai trò quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của tỉnh trong quá trình phát triển. Những năm qua, Quảng Ninh đã thành công trong việc liên kết, hợp tác với nhiều tỉnh, thành phố thông qua các chương trình đánh giá công tác phối hợp chung trên nhiều lĩnh vực, dựa trên thế mạnh và tiềm năng riêng của từng địa phương, hướng đến mục tiêu phát triển dài hạn. Điển hình như: kết nối hạ tầng giao thông tuyến Cao tốc Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long, góp phần thúc đẩy phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; khai thác có hiệu quả cảng biển Quảng Ninh và Hải Phòng; ban hành quy chế phối hợp, góp phần kết nối khu vực tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Về Du lịch, dịch vụ, tỉnh đã hợp tác với nhiều địa phương như: Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang, Đà Nẵng, Nha Trang… để đẩy mạnh phát triển hoạt động du lịch, trao đổi du khách, đảm bảo tính bền vững cũng như phát triển giá trị văn hóa.
Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái và Khu kinh tế ven biển Quảng Yên được thành lập cũng đã được hình thành góp phần phát huy được tiềm năng, lợi thế cũng như sự gắn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phương và vươn xa hơn là với các tỉnh thành khác.
Nhìn nhận từ thực tế Quảng Ninh, có thể nhận thấy việc thúc đẩy liên kết, hợp tác liên kết vùng sẽ mở ra những cơ hội phát triển kinh tế xã hội cho các địa phương, nhất là trong phát triển hạ tầng giao thông, kết nối, thu hút đầu tư, mở rộng các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ các thế mạnh vùng. Vì vậy, để tiếp tục khai thác tiềm năng, lợi thế phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, hướng tới sự phát triển bền vững cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của liên kết vùng, tập trung khai thác thế mạnh của từng vùng để bổ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bên cạnh đó, cũng cần có những chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư và các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng. Thực hiện tốt công tác bảo tồn sinh thái, giữ gìn văn hóa và phát triển toàn diện nền kinh tế, xã hội trong bối cảnh mới.
Thực hiện: Mạnh Trường - Minh Đức
Kỹ thuật đồ họa: Tất Đạt