
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ mùa thu Cách mạng năm 1945, với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", dân tộc Việt Nam đã kiên cường, anh dũng trải qua nhiều cuộc trường chinh vô cùng gian khổ, ác liệt, với sự hy sinh của hàng triệu người con ưu tú để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ Đổi mới, với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", một lần nữa nhân dân Việt Nam lại bước vào cuộc chiến đấu đầy gian khó để xóa đói, giảm nghèo, lạc hậu và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong dòng chảy ấy, nhân dân Vùng mỏ luôn tự hào, trân trọng giá trị nền độc lập mà cha ông đã hy sinh xương máu để giành được, luôn hăng say lao động sản xuất, xây dựng một Quảng Ninh ngày càng giàu đẹp.

79 năm qua, khí thế hào hùng Ngày Độc lập 2/9/1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) luôn là động lực, tiếp lửa cho những thế hệ nhân dân, công nhân Vùng mỏ trong lao động sản xuất và chiến đấu. Hôm nay trên những tầng than, dưới những đường lò, từng suối than vẫn đang tuôn chảy, thắp sáng thêm những công trình, làm giàu cho Tổ quốc và Vùng mỏ Quảng Ninh.
“Là một người dân của Vùng mỏ Quảng Ninh, tôi luôn trân trọng giá trị nền độc lập mà cha ông đã hy sinh xương máu để có được. 26 năm làm thợ lò, tôi tự hào vì những năm tháng đã gắn bó với biết bao thăng, trầm của ngành Than; chứng kiến mỗi giai đoạn đổi thay, đi lên của Vùng mỏ. Càng tự hào và gắn bó với nghề bao nhiêu, tôi càng thêm khát vọng chinh phục chiều sâu tầng than, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ”, thợ lò Nguyễn Hồng Cẩm (Công ty Than Thống Nhất - TKV) chia sẻ.
Ông Cẩm là thế hệ thợ lò thứ 2 trong một gia đình có 3 đời làm thợ mỏ. Năm 1965, bố ông - cụ Nguyễn Đức Tông, rời vùng quê Thái Bình tới Quảng Ninh lập nghiệp. Từ người nông dân, cụ Tông trở thành thế hệ thợ lò đầu tiên có công xây dựng Mỏ Than Thống Nhất. Trên mảnh đất giàu truyền thống lịch sử này, tình yêu nghề mỏ được cụ Tông trao lại cho ông Cẩm và sau đó ông Cẩm tiếp tục truyền lại cho con trai là anh Nguyễn Duy Khánh.
Gia đình ông Nguyễn Hồng Cẩm vinh dự đón Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đến thăm, tặng quà nhân dịp Tháng Công nhân năm 2023. (Ảnh nhân vật cung cấp)
Gia đình ông Nguyễn Hồng Cẩm vinh dự đón Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đến thăm, tặng quà nhân dịp Tháng Công nhân năm 2023. (Ảnh nhân vật cung cấp)
Đến nay anh Khánh có 7 năm làm thợ cơ điện mỏ hầm lò, đã quen với những đường lò sâu hun hút, nhịp sản xuất sôi động dưới lòng đất. Nhưng ký ức về mỏ của anh thì dài hơn thế. “Đó là ký ức về những chiếc bánh mì mỏ bố mang về sau những đêm ca 3; là câu chuyện ông nội kể về ngày đầu khai mỏ, tạo nên những con phố thợ ở đất Cẩm Phả này. Những ký ức đó là động lực thôi thúc tôi nối tiếp nghề của ông, cha”, anh Khánh trải lòng.
Tự hào về truyền thống gia đình và truyền thống ngành Than, những người thợ mỏ như ông Cẩm, anh Khánh ngày càng gắn bó với nghề, dẫu biết nhọc nhằn, vất vả. Hai bố con ông đều là những thợ lò tiêu biểu của Công ty Than Thống Nhất với tinh thần làm việc chăm chỉ, năng suất cao. Lớp thợ đi trước truyền dạy cho lớp thợ sau những kinh nghiệm quý báu để khắc chế khó khăn, sản xuất đạt hiệu quả, giữ vững an toàn.
Những gia đình nhiều thế hệ làm nghề thợ mỏ ở Quảng Ninh rất phổ biến. Từ nhiều miền quê khác nhau, họ về đây lập nghiệp, truyền nghề cho con và gắn bó với mảnh đất này. Họ chính là những thành tố đang đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững của ngành Than bằng chiều sâu trí tuệ và cả tâm hồn người thợ mỏ.

Tự hào về truyền thống, thợ mỏ Quảng Ninh ngày càng gắn bó với nghề, thi đua sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc. Ở các đơn vị thuộc TKV, hằng ngày trong những ca sản xuất, khí thế lao động luôn sôi nổi. Họ thi đua đạt ngày công cao, năng suất cao, giữ vững an toàn, thi tay nghề giỏi, ý tưởng tốt, tạo ra những giá trị lớn cho các doanh nghiệp. Khí thế ấy càng được nhân lên vào mỗi dịp đặc biệt, như những ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh, ngành Than...; mỗi người thợ mỏ vào ca như hào hứng hơn, năng suất lao động cũng bởi thế mà cao hơn.
Niềm vui của thợ mỏ khi vào ca.
Niềm vui của thợ mỏ khi vào ca.
Thào A Thanh là một thợ lò trẻ của Công ty Xây lắp mỏ - TKV. Anh mới vào nghề được 5 năm, là thợ đào lò bậc 1, nhưng tinh thần lao động của anh luôn được các đồng nghiệp trong Phân xưởng Đào lò 14 nể phục. Từ đầu năm 2024 đến nay, mỗi tháng anh đạt từ 26-28 công, thu nhập bình quân trên 35 triệu đồng. Những ngày qua, cả Công ty sôi động không khí thi đua chào mừng kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, thợ lò trẻ Thào A Thanh càng thêm phấn khởi, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
“Thợ lò chúng tôi đang được làm việc ở môi trường rất thuận lợi về điều kiện đi lại, máy móc cơ giới được cải tiến..., nên càng hăng say lao động. Trong những ngày tháng lịch sử này, tôi càng cố gắng làm việc an toàn và hiệu quả, góp phần cùng Phân xưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao về mét lò đào”, anh Thanh chia sẻ.
Chung tinh thần thi đua đầy hứng khởi ấy, Tổ trưởng Lê Văn Hoàn (Phân xưởng Khai thác 15, Công ty Than Mạo Khê - TKV) bước vào những ngày cao điểm sản xuất của quý III với quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Phân xưởng giao. Anh cho biết, Công ty đã phát động đợt thi đua hoàn thành vượt mức chỉ tiêu sản lượng và chào mừng Tết Độc lập ngay từ những ngày đầu quý. Là Tổ trưởng, anh đã phổ biến và khích lệ tinh thần lao động của anh em trong tổ, phấn đấu cùng phân xưởng đạt năng suất 650 tấn than/ngày đêm, vượt chỉ tiêu Công ty giao.
Nhìn lại chặng thời gian hơn 7 tháng của năm 2024 - một năm nhiều khó khăn với TKV, Tổng Giám đốc TKV Đặng Thanh Hải khẳng định: Tinh thần kỷ luật - đồng tâm và khí thế thi đua lao động sôi nổi của công nhân đã giúp Tập đoàn hoàn thành tốt mọi chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng. 7 tháng năm 2024 sản lượng than thương phẩm đạt trên 32 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2023; than nguyên khai trên 23 triệu tấn, bằng 60% kế hoạch năm nay, tăng so với cùng kỳ. Các chỉ tiêu về bốc xúc đất đá, mét lò đào cũng thể hiện sự tăng trưởng. Nhờ sản xuất đảm bảo, TKV đã cấp đủ than cho điện thời gian qua, đạt trên 23 triệu tấn, cao hơn so với cùng kỳ. Tập đoàn đã và sẽ tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất là đảm bảo đủ than cho sự phát triển của nền kinh tế.
Thợ lò Công ty Than Núi Béo hô khẩu hiệu an toàn trước khi vào ca.
Thợ lò Công ty Than Núi Béo hô khẩu hiệu an toàn trước khi vào ca.
Những ngày mùa Thu lịch sử, mỗi người dân Quảng Ninh nói chung, CBCN ngành Than nói riêng, đều chung cảm xúc bồi hồi, nhắc nhau nhớ về nguồn cội, về lịch sử vẻ vang của dân tộc. Sự hy sinh của các thế hệ cha anh đã mang lại nền hòa bình, độc lập cho dân tộc; tiếp tục khơi dậy niềm tin yêu, sự trân trọng, biết ơn sâu sắc và khát vọng cống hiến dựng xây quê hương, đất nước, Quảng Ninh thêm đẹp, thêm giàu.


Mùa thu lịch sử 79 năm về trước (tháng 8/1945), với khí thế sục sôi cách mạng của công nhân và người dân Vùng mỏ Cẩm Phả đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa tự quản giành chính quyền của bọn thực dân đế quốc và tay sai, để lập nên chính quyền cách mạng.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, cả Đông Dương đã rơi vào tay Nhật. Ở Khu mỏ Quảng Ninh, Nhật cải tổ bộ máy cai trị, lập nên đội ngũ tay sai đắc lực, tăng cường mật thám, chỉ điểm để đàn áp phong trào công nhân và nhân dân. Mặt khác chúng dùng thủ đoạn lừa phỉnh mua chuộc, tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á” kêu gọi người dân và thanh niên hợp tác với chúng.
Bác Hồ nói chuyện với chuyên gia và công nhân trên tầng 10 mỏ than Đèo Nai ngày 30/3/1959. (Ảnh tư liệu)
Bác Hồ nói chuyện với chuyên gia và công nhân trên tầng 10 mỏ than Đèo Nai ngày 30/3/1959. (Ảnh tư liệu)
Một số tên tư bản Nhật hùn vốn với bọn chủ Pháp trong Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ ra sức bóc lột sức lao động của công nhân; tại các tỉnh, thành khác ở miền Bắc chúng ra sức vơ vét tài nguyên của ta, kiểm soát lương thực. Hậu quả của chính sách bóc lột tàn bạo của Pháp - Nhật đã làm cho đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh đói khổ cùng cực. Tại Cẩm Phả phố xá xác xơ tiêu điều, hằng ngày có 30-40 người chết đói. Bọn tay sai của Nhật, bọn phỉ còn thường xuyên cướp bóc, làm cuộc sống người dân càng khốn đốn hơn.
Ông Vũ Cẩm, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, xem lại tư liệu về khởi nghĩa Vùng mỏ Cẩm Phả năm 1945.
Ông Vũ Cẩm, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, xem lại tư liệu về khởi nghĩa Vùng mỏ Cẩm Phả năm 1945.
Tháng 6/1945 Chiến khu Trần Hưng Đạo (Đệ tứ Chiến khu Đông Triều) được thành lập, chỉ đạo nhân dân ta đứng lên khởi nghĩa cướp chính quyền khi thời cơ đến. Năm nay ở tuổi 92, ông Vũ Cẩm, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh, cán bộ tiền khởi nghĩa ở Cẩm Phả năm 1945, vẫn nhớ nhưng ngày sục sôi cách mạng đó. Ông kể: Đầu tháng 5/1945, cơ sở Việt Minh ở Cẩm Phả đã giác ngộ binh lính bảo an ở Cửa Ông làm binh biến theo cách mạng, tham gia Đội tự vệ vũ trang đầu tiên ở Chiến khu Trần Hưng Đạo. Những ngày tháng 6/1945 tôi mới là cậu thiếu niên 13 tuổi, nhưng cảm nhận được không khí cách mạng đang bao trùm cả Vùng mỏ. Tại Nhà máy Cơ khí Cẩm Phả, một số công nhân đã bí mật rèn vũ khí, lấy mìn tập trung về phố Li-on (nay là phố Quang Trung), đi từng nhà vận động mọi người chuẩn bị giáo, mác, đuốc...
Sau một quá trình chuẩn bị, chiều tối 12/8/1945, đặc biệt đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa; đoàn biểu tình rầm rập đi trên đường phố, hô vang “Việt Minh muôn năm!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”. Chính quyền bù nhìn thân Nhật đã hoàn toàn tê liệt, bộ máy tay sai hoang mang, rệu rã; uy tín của Việt Minh càng lên cao. Đoàn chúng tôi xông vào trại lính khố xanh thì đã không còn một bóng người. Tôi cùng mấy thiếu niên được phân công làm liên lạc giữa các điểm canh gác của quần chúng nhân dân Khu mỏ. Những người nổi lên khởi nghĩa làm chủ Vùng mỏ mạnh đến nỗi như thay mặt người chết mà vùng dậy, không có một lực lượng phản động nào dám ngăn cản và chống lại.
Ngôi miếu sát bờ sông xã Tam Hợp (nay thuộc phường Cẩm Thành, TP Cẩm Phả), nơi nghĩa quân Đệ tứ Chiến khu tập trung trước khi tiến vào Cẩm Phả. (Ảnh tư liệu)
Ngôi miếu sát bờ sông xã Tam Hợp (nay thuộc phường Cẩm Thành, TP Cẩm Phả), nơi nghĩa quân Đệ tứ Chiến khu tập trung trước khi tiến vào Cẩm Phả. (Ảnh tư liệu)
Vào thời điểm Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Cẩm Phả lúc đó gọi là khởi nghĩa tự quản. Công nhân mỏ đã đấu tranh bền bỉ trong nhiều năm; công nhân hăng hái nổi dậy đứng lên giải phóng, nhưng không tự mình lập được chính quyền, phải mời Đệ tứ Chiến khu Đông Triều về lập chính quyền cách mạng. Sau khi giải phóng được 10 ngày (22/8), Đệ tứ Chiến khu về, cử anh Căn là thư ký mỏ làm Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Cẩm Phả, rồi mỗi phố cử ra mấy người làm tự vệ, trị an, không cho thổ phỉ đến, bảo vệ gìn giữ Khu mỏ.
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Vùng mỏ Cẩm Phả không đổ máu là kết quả sự hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam, trong đó có hàng trăm, hàng nghìn người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ, quân và dân Cẩm Phả đã kiên cường đấu tranh, xứng đáng với truyền thống cách mạng của quê hương Vùng mỏ. Xuyên suốt cuộc kháng chiến trường kỳ, Chi bộ Đảng và Ban cán sự Đảng liên thị Cẩm Phả - Cửa Ông vừa xây dựng, vừa củng cố tổ chức và lãnh đạo quân dân vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để “kháng chiến kiến quốc” tại Vùng mỏ, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng.
Ngày 30/10/1963 Quốc hội khóa II đã phê chuẩn việc hợp nhất khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh thành tỉnh Quảng Ninh. Cẩm Phả là một thị xã lớn của tỉnh Quảng Ninh. Việc thành lập tỉnh đã tạo ra điều kiện cho sự phát triển mới của TX Cẩm Phả. Giai đoạn này, thị xã vừa xây dựng cơ sở vật chất, vừa chiến đấu chống Mỹ cứu nước.
Trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Đảng bộ, chính quyền, LLVT và nhân dân Cẩm Phả đã dũng cảm, ngoan cường, thông minh sáng tạo chuyển hướng sản xuất, tổ chức hoạt động xã hội trong hoàn cảnh chiến tranh.
Đất nước thống nhất, thị xã tiếp tục trải qua giai đoạn khó khăn, thách thức trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, nhưng luôn giữ vững tư tưởng cách mạng tiến công, phát huy tính năng động sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm mỏ than Đèo Nai năm 1992. (Ảnh tư liệu)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm mỏ than Đèo Nai năm 1992. (Ảnh tư liệu)
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ sau năm 1986, Cẩm Phả đã có những bước đột phá mới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tập trung khai thác đúng tiềm năng thế mạnh địa phương, khuyến khích thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất. Thành quả đổi mới tạo tiền đề vững chắc cho định hướng phát triển của thành phố tương lai.
Ngày 21/2/2012 TX Cẩm Phả trở thành thành phố trực thuộc tỉnh. Ngày 17/4/2015 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 505/QĐ-TTg công nhận TP Cẩm Phả là đô thị loại II thuộc tỉnh. Đây là mốc đánh dấu mạnh mẽ cho sự phát triển của thành phố trong giai đoạn mới, TP Cẩm Phả đã chủ động đổi mới sáng tạo, huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, gắn với bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường, đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh; xây dựng Cẩm Phả là đô thị, công nghiệp dịch vụ theo hướng đồng bộ, hiện đại, giàu đẹp, văn minh; phấn đấu đến năm 2030 trở thành đô thị loại I, giữ vững vị thế là cực tăng trưởng quan trọng của tỉnh.
TP Cẩm Phả ngày càng đổi thay. Ảnh: Minh Đức
TP Cẩm Phả ngày càng đổi thay. Ảnh: Minh Đức
Con người Vùng mỏ Cẩm Phả kiên cường, quật khởi, hào sảng, nghĩa tình. Thành phố hôm nay tràn đầy khí thế của một đô thị trẻ, hiện đại, đang vượt lên mạnh mẽ, trở thành địa phương điển hình về chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững.


“Kỷ luật, đồng tâm - Chúng ta nhất định thắng”, “Sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc”… đó là những khẩu hiệu thể hiện sức mạnh tinh thần vô giá, truyền thống của giai cấp công nhân Vùng mỏ. Trong công cuộc đổi mới hôm nay, những người thợ mỏ phát huy truyền thống, từng bước vượt qua khó khăn, chủ động hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành Than, đóng góp to lớn vào sự phát triển của tỉnh, của đất nước.
Chỉ đạo thực hiện: Lan Hương
Tổ chức sản xuất: Hoàng Quý
Thực hiện: Hoàng Yến - Dương Trường - Phạm Tăng
Trình bày: Hùng Sơn