Tất cả chuyên mục

Vào một ngày áp Tết, người viết truyện này có việc lên thị xã Lào Cai, nhân tiện tìm thăm một người bạn cũ. Chẳng biết kiếp trước anh mắc tội gì mà kiếp này giời bắt làm thi sĩ. Cánh bạn bè thân thiết vẫn gọi anh là “thi sĩ họ Hoàng”.
Với những người đã bị vôi hoá tâm hồn, thi sĩ họ Hoàng là người họ không hiểu nổi. Năm mười sáu tuổi, anh đã đem lòng say mê một người đàn bà goá xấu xí chỉ bởi bà ta có tài chơi đàn. Suốt đêm anh quanh quẩn dưới cầu thang nhà sàn, người héo hắt như tàu chuối khô, nghển cổ hớp từng giọt đàn xanh thắm. Người đàn bà chết đi, để lại cho anh cây đàn. Suốt thời trai trẻ, anh ôm đàn lang thang từ vùng hồ Thác Bà đến thung lũng Than Uyên, xứ sở của ruồi vàng và gió nóng. Những đêm trăng ngàn gió bãi, tiếng đàn đã thay anh làm tan nát bao trái tim người.
Năm hai mốt tuổi, anh nhặt được trong đống rác một cuốn sách mối xông lỗ chỗ. Sách kể về một người con gái hay đến nỗi anh mụ mẫm vì yêu nàng và tin là nàng có thật. Một ngày kia, anh nảy ý định ra đi tìm nhân vật. Nhưng cô gái trong truyện sống ở một miền thảo nguyên nào đó rất xa, cả đời anh cũng khó tìm đến được. Nửa đêm tỉnh giấc, anh hoảng hốt nhận ra sự ngắn ngủi của kiếp người. Anh bật khóc. Thế gian này còn nhiều thi vị biết bao! Gần sáng, anh mơ thấy người con gái đội trang sách chui lên và nói: “Hãy đọc thật nhiều sách nữa, anh bạn trẻ. Nếm trải cuộc đời của hàng vạn nhân vật, đó là cách anh bù đắp cho sự hữu hạn của đời mình”.
Từ đó, anh trở thành con mọt sách. Một sinh vật nhỏ nhoi rắp tâm đục ruỗng cả nền văn minh nhân loại. Nói chuyện với anh, bạn sẽ lạc vào một mỏ chữ ngầm. Càng cuốc, càng đào, càng thấy lộ ra lấp lánh vỉa vàng, vỉa bạc. Ham đọc, anh lại ham chơi. Đã chơi thì cho cạn dòng cạn giọt. Con người đam mê là thế, mà lúc nào cũng buồn...
Nhà thi sĩ ở gần sông. Tuy nghèo nhưng chẳng lúc nào thiếu trăng, thiếu gió. Phía trước nhà có một cây đào to đang trổ nụ. Cây đào hơi ngả về phía ngôi nhà, không hiểu sao lại được trồng ở thế chênh vênh trên sườn dốc. Tôi hỏi thi sĩ. Anh không đáp, mặt thoáng buồn. Đoán có điều gì uẩn khúc, tôi im lặng. Đêm ấy anh ngồi với tôi, nhấm nháp vài li rượu trắng. Khi mặt hồng lên, với giọng ngực thâm trầm, anh bắt đầu kể.
...Một ngày đầu xuân, thi sĩ họ Hoàng lên Sa Pa. Đã lâu lắm, nơi đây lại có tuyết.
Năm ấy, khắp Sa Pa đỏ rực sắc hoa đào. Hoa soi mình xuống tuyết, thẹn thùng, và tuyết lạnh rưng rưng dưới màu hoa ấm lửa. Trong các khu vườn, trên các thân đào cổ thụ, tuyết bám từng mảng long lanh, và trên mặt đất trắng tinh lác đác cánh hoa đào đỏ thắm.
Những người ngại leo dốc dừng lại dưới chân đồi tuyết. Một mình thi sĩ quả quyết leo lên con đường quanh co mất hút về phía núi Hàm Rồng. Ở ven đồi và trên sườn dốc, những rặng cây tống quá sủ mọc um tùm. Càng lên cao, không khí càng hiu quạnh. Thỉnh thoảng lại thấy một khối đá đen sì đột ngột nhô lên từ dưới cỏ, trông như những người đứng im doạ dẫm. Anh có cảm giác mình đã lên tới cõi trời. Bỗng anh nghe văng vẳng tiếng cười phía trước.
Đi một quãng khá xa nữa, anh lại nghe thấy tiếng cười, lần này rõ hơn. Anh chạy lên. Nhưng chỉ thấy con đường mất hút giữa một bên là vách đá, một bên là hẻm sâu phủ đầy cây dẻ, trâm, màng tang và sơn dại. Chợt anh thấy phía trước, bên gốc cây dẻ đá có những vết đỏ nhoè như máu trên mặt tuyết. Đến nơi, anh thấy đó là mấy cánh hoa đào ai vứt lại.
Một lúc sau, anh phát hiện ra những vết giày in trên tuyết dẫn vào một lối ngoặt phía trái đường mòn, liền rẽ theo. Chợt có tiếng cười rộ lên. Anh ngồi thụp xuống sau một mô đá, ghé mắt nhìn.
Cách chỗ anh ngồi dăm mét, bên một khóm lê già, một cô gái đang lúi húi xỏ chân vào chiếc giày thể thao bị tụt. Cách đó một quãng, hai cô gái khác đứng nhìn và cười giễu bạn. Khi cô gái buộc xong dây giày và ngẩng đầu lên, mỉm cười, thi sĩ thấy tim mình se lại.
Anh chưa gặp người con gái nào xinh thế bao giờ.
Cô gái còn trẻ lắm, trông có dáng một cô học trò. Khuôn mặt làm anh nhớ tới tranh vẽ cô bé búp bê tóc vàng trong truyện của một nhà văn Nga. Dưới làn tóc ngắn xoã mềm, đôi má ửng hồng như sắc lay ơn của ngàn mùa xuân Sa Pa còn đọng lại. Thi sĩ thấy người nóng bừng. Anh cựa quậy, lỡ đụng vào một hòn đá làm nó sột soạt lăn xuống hẻm rậm. Cô gái sững lại, ngó quanh, vẻ cảnh giác rồi vội vã chạy theo hai người bạn. Khi cô chạy khuất, anh nhổm dậy hấp tấp rượt theo. Ba cô gái biến mất trong vạt đồi ngô đã bẻ bắp, còn trơ thân lá ngập lút đầu.
Anh cắm cúi bước, có lúc bị trẹo chân đau nhói, mũi giày thọc sâu vào tuyết. Anh bực tức hất tung tuyết vào các gốc ngô rào rào. Từ dưới tuyết xộc lên mùi lá ngô ải. Ba cô gái kia đi nhanh như có phép lạ. Ra khỏi vạt đồi ngô khô xác rộng mênh mông, anh đứng lại, lắng nghe.
Xa xa có tiếng hát ngân dài trên đồi tuyết.
Thi nhân đi tìm cái đẹp, say đắm theo chân mĩ nữ và mây gió trăng hoa là chuyện muôn thuở của con người. Màu đỏ thắm của hoa đào xứ núi phảng phất thêm cho truyện một phong vị cổ xưa, nhưng màu tuyết trắng tinh như ở xứ trời Âu cùng sự trẻ trung trong cái nhìn và ngôn ngữ nhân vật đã mang tới không khí hiện đại cho trang viết. Truyện ngắn giàu chất thơ của nhà văn Phạm Duy Nghĩa ở xứ hoa đào Sa Pa tuyết trắng. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc... Uông Triều (giới thiệu) |
Anh băng qua sườn cỏ gianh, nhằm về hướng có tiếng hát. Qua một bãi hoa thóc dại, anh lạc vào giữa những bụi sặt, trúc, dâu dại và đũm xuân. Đang len lỏi tìm đường, anh chợt thấy ló ra một khối đá rất cao. Ba cô gái đang đứng đó, mỗi cô cầm một mẩu đá nhọn, hí hoáy khắc tên mình lên đá. Cô gái má hồng đứng giữa, quần xắn cao, vẻ tinh nghịch, cố kiễng chân khắc tên mình cao hơn tên các bạn. Anh không để tâm xem cô khắc chữ gì mà hồi hộp nhìn vào cái cơ thể mềm mềm rung động. “Một viên ngọc, không phải là người” - anh thở dài. “Vẻ đẹp ấy chả nghệ thuật nào tả nổi. Văn học rõ ràng là bất lực. Hoạ sĩ tài ba cố lắm cũng chỉ đem lại một khái niệm mơ hồ về nó mà thôi”.
Khắc tên xong, ba cô gái cười khanh khách, chạy vụt đi. Cứ như sợ ai bắt vậy.
Khu đồi trở lại vắng vẻ. Lúc này thi sĩ mới cảm thấy hơi xấu hổ. Một người lớn tuổi như anh mà lại ngồi thu mình sau bụi rậm, rình mò... Anh đi tập tễnh xuống dốc. Ba cô gái đã mất hút.
“Thế là ta chẳng bao giờ gặp lại em nữa” - anh nhủ thầm. Trên chuyến xe rời Sa Pa chiều hôm đó, lòng anh mênh mang một nỗi buồn. Có những con người vô tình xuất hiện, làm ta vương vấn, rồi cho đến hết cuộc đời ta vẫn không biết người đó là ai... Bất giác anh đập vào thành xe thình thình. Người lái xe quay đầu lại.
- Cho tôi xuống - Thi sĩ nói, giọng dứt khoát.
Những người trên xe ngạc nhiên nhìn anh bước xuống đoạn đường vắng vẻ, một bên là vực sâu bạt ngàn lau lách. Chiếc xe chạy đi.
Nửa giờ sau, dân thị trấn Sa Pa thấy một anh chàng đeo kính cận lê gót dưới rặng thông đẫm tuyết bên đường. Nom bé nhỏ và cô độc. Chàng ta đi lững thững quanh thị trấn một vòng đến khi đêm đổ về nhập nhoà trên tuyết trắng.
…Hôm sau, thi sĩ họ Hoàng dậy rất sớm. Trời vừa sáng, thi sĩ chạy băng qua đồi. Lần này anh chọn đường ngắn nhất. Đến khối đá đen, anh dừng lại thở dốc. Nhặt một cành thông khô đỏ úa, anh gạt lớp tuyết đêm trước bám trên mặt đá. Tuyết rơi xuống để lộ ra chi chít tên người được khắc trên đó từ những năm nào. Ở phía trên hai cái tên khác, nét khắc còn mới, anh thấy ngay cái tên cần tìm...
Anh khấp khởi về phố. Nhưng hỏi tên Nhuệ, ai cũng trả lời không biết. Khi đã nản, anh được một người thợ ảnh mách: “Anh đi ngược lên con dốc kia, đến phía sau biệt thự cũ của Pháp, hỏi nhà ông Sâm trồng cây thuốc. Nhà ấy khá giàu, chỉ có một cô con gái tên là Nhuệ”.
Tìm đến nơi, anh thấy một ngôi nhà xây nhỏ. Những dây hồng bạch bò lan trên hàng rào trước sân bên đám cây bạch cập hoa vàng. Anh lách mình qua cánh cổng sắt sơn xanh khép hờ. Trong nhà im ắng. Một người đàn ông có ria rậm ngủ trên giường, một chân buông thõng xuống đất, chắc là say rượu. Anh rón rén bước lên khu vườn rộng sau nhà, nấp sau một tảng đá lớn. Trong vườn trồng cây gấu tầu, đỗ trọng và bạt ngàn a-ti-sô.
Một giờ trôi qua. Anh bỗng chột dạ: “Biết đâu Nhuệ cũng như mình, chỉ là khách lãng du từ nơi khác đến và đã cùng các bạn rời Sa Pa chiều qua? Còn đây là nhà của một cô Nhuệ khác?”. Anh hoang mang. Nấn ná một lúc, anh định ra khỏi khu vườn. Vừa bước lên tảng đá, anh ngồi thụp xuống. Một cô gái đứng trên sân nhà từ lúc nào đã nhìn thấy anh.
Cô gái bước lên vườn. Tim anh đập mạnh. Đúng là cô học trò nhí nhảnh anh gặp trên đồi. Vẫn giày màu trắng sọc đỏ và chiếc áo khoác cũng nửa trắng nửa đỏ có sợi dây thắt nút lòng thòng, đầu dây quất nhẹ vào đùi theo nhịp bước. Lúc này thi sĩ mới hoảng hốt. Anh không biết tìm lí do gì cho hành động lén lút của mình. Cuống lên, anh nói:
- Anh là nhà thơ. Đi qua đây, thấy tảng đá đẹp, anh rẽ vào xem một tí.
Cô gái suýt phì cười. Thoáng nhìn anh, cô nói:
- Chú là nhà thơ? Hay thật đấy. Vậy chú đọc cho cháu nghe một bài thơ của chú đi nào.
Vừa nói cô vừa thoăn thoắt trèo lên tảng đá.
Lối xưng hô của cô làm lòng anh héo lại. Vẻ tự nhiên của cô làm anh thấy tự tin. Lời đề nghị bất ngờ làm anh bối rối.
Và, chính vì lối xưng hô ấy, thi sĩ không còn hứng thú đọc thơ mình. Sau vài phút lưỡng lự, anh quyết định đọc thơ người khác, nói dối là thơ anh. Mở đầu là một bài thơ của Bích Khê mà anh cho là hiếm người biết. Những vần thơ xốn xang như mùa thu đổ vàng trên đồng nội. Cô gái ngồi nghe, đôi môi hồng mọng hé cười để lộ hàm răng tươi rói và tạo nếp hằn cong bên khoé mép mịn màng.
Nghe xong, cô gái nghiêng mái đầu duyên dáng ngó mặt anh, miệng mỉm một nụ cười tinh quái.
- Bài thơ của chú đẹp và buồn. Nhưng sao cháu thấy giống thơ Bích Khê quá vậy?
“Hừ, cô nàng tinh thật!” - anh chột dạ. Ngượng ngùng và lúng túng mất một lát, anh xin đọc bài khác. Lần này là một áng Đường thi.
Cô gái có vẻ xúc động. Cô nói:
- Bài thơ của chú đưa cháu về lại những ngày xưa yêu thơ Đường, yêu đêm trăng sáng. Bao năm rồi cháu còn nguyên cảm xúc ban đầu khi đọc Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư.
Thi sĩ đỏ bừng mặt. Thật là một đối thủ đáng gờm! Anh muốn hạ súng! Anh muốn đầu hàng! Nhưng anh hậm hực xông lên. “Được! Đã thế, ta đọc một bài lạ hoắc của Tagore cho biết tay”. Và anh ngước mắt, thả lên trời xanh một chất giọng mơ màng.
Khi anh đọc hết bài, cô gái thong thả nói:
- Hình như chú làm quá nhiều thơ nên lẫn thơ mình với thơ người khác thì phải. Vừa rồi chú đọc nhầm sang thơ Tagore, trong tập Người làm vườn, bài số 16.
Anh gần như tuyệt vọng.
Cô gái không chịu nổi, phá lên cười.
- Ngồi với chú hay thật đấy. Chú kể chuyện gì cho cháu nghe đi.
- Người thơ không có tuổi đâu, cô gái ạ - Thi sĩ buồn rầu nói - Vả lại, cô chỉ kém tôi chục tuổi thôi, gọi tôi là anh mới phải.
Cô gái khẽ vâng ngoan ngoãn rồi lại cười. Anh cảm động húng hắng ho, rồi bắt đầu kể. Anh kể đủ thứ trên đời, từ chuyện chim sẻ làm tổ trong mái nhà mình cho đến phân tâm học của Freud. Cô chăm chú nghe và luôn mỉm cười. Đôi mắt hơi ướt thỉnh thoảng lại sáng lên ngạc nhiên, như đang dần phát hiện ở con người anh những điều rất thú vị. Có lúc cô khen: “Anh kể chuyện hay như chàng chăn cừu của Alphonse Daudet vậy”. Người anh cứ mê đi. Anh vừa có cảm giác cô gái này rất ngây thơ, vừa mơ hồ cảm thấy cái gì cô cũng biết. Dường như cô nhìn thấu ruột gan anh. Lạ thật!
Trời ấm dần. Vườn a-ti-sô hồng lên vạt nắng trong và nhẹ. Trên các cành cây và mặt đất, thầm thì tuyết bắt đầu tan.
Và gió từ đồi xa thoảng lại, rất nhẹ thôi, như là không có. Gợi chút hơi ẩm của tuyết tan và hương vị ngậm ngùi của hoa cỏ. Thi sĩ còn nhận ra một mùi hương khác, không chỉ bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn ngây ngất. Đó là mùi hương thầm kín của cô gái mới qua tuổi dậy thì...
Thi sĩ họ Hoàng trầm ngâm nhìn ra bóng đêm ngoài cửa. Từ dưới sông vọng lên tiếng sỏi đổ rào rào lên những chiếc xà lan. Tôi cảm thấy mỏi mệt và muốn đi nằm, nhưng câu chuyện về cô gái xứ hoa đào vẫn tiếp tục...
“Ít lâu sau lần gặp gỡ ấy, chúng tôi yêu nhau. Tình yêu say đắm và dịu dàng như làn mưa, như nụ hoa ủ hương ngọt ngào trên núi. Những ngày ấy tôi sống trong mơ. Tiếng đàn hồi sinh trở lại, và trong ngõ ngách tâm hồn theo tháng năm cằn cỗi, những vần thơ xanh mướt lại nhú mầm.
Cho đến cuối mùa xuân năm sau...
Một lần tới thăm, tôi thấy em thành người khác hẳn. Buồn và tư lự, em không còn là cô học trò vui tươi nhí nhảnh ngày nào. Tôi hỏi, em chỉ lắc đầu, gượng cười và nói sang chuyện khác. Lần gặp sau cùng, em ôm lấy tôi mà khóc. Bố đã nhận lễ gả em cho một người giàu ở thị trấn. Bông hoa vườn xinh xắn, ông cương quyết không đặt vào tay người nghèo. Mẹ mất khi em còn thơ, ơn bố bao năm chăm chút thành người, em không nỡ cố tình trái ý. Tôi chỉ biết thở dài. Lúc chia tay, em tặng tôi một trái đào. Em lả vào người tôi, trông nhợt nhạt như chết rồi, toàn thân run bắn: “Anh giữ trái đào này làm kỉ niệm. Nó minh chứng cho tấm lòng của em đối với anh đó, xin anh đừng bao giờ vứt đi. Từ nay hương thơm của nó sẽ theo anh đi vào giấc ngủ. Em biết không bao giờ được nhìn thấy anh nữa. Nếu anh còn hướng về em, còn nhớ xứ hoa đào, thì hàng năm cứ đến mùa xuân, tình em lại theo gió mà về...”. Tôi giơ tay bịt miệng em. Câu nói phảng phất truyện xưa làm tôi thấy rờn rợn. Hôm đó tôi đã mắng em, tội nghiệp em tôi. Suốt đời tôi không bao giờ tha thứ cho mình về việc này.
Ở Sa Pa về, tôi đặt trái đào bên gối nằm. Trái này em hái ở tận rừng đào Sả Xéng, chưa chín hẳn và không có mùi thơm. Nhưng không lâu sau phút đặt mình, cả giấc ngủ bỗng chín đằm, tan trôi trong mùi hương bồng bềnh ngan ngát.
Mấy hôm sau, vào lúc sẩm tối, tự dưng tôi thấy nôn nao choáng váng khác thường. Hôm đó tôi đi ngủ sớm. Nửa đêm tỉnh giấc, trong bóng tối tôi thấy trái đào toả mùi thơm rất lạ. Tôi choàng dậy, lóng ngóng rờ tìm cây đèn sắt. Khi gian buồng bừng sáng, tôi nhìn vào giường mình và khẽ lùi lại.
Trên chiếc gối trắng, trái đào cứ hồng lên như má người con gái trẻ.
Thấy kinh dị, tôi mang trái đào đến bên cửa sổ. Tôi đứng nhìn rất lâu rồi quyết định trả nó về với đất. Phút yếu mềm, tôi thành kẻ có tội. Trái đào bay vút qua khoảng trời đêm mùa hè trong xanh và biến mất sau vòm cây lá um tùm.
Sau đó một tuần, có người quen ở Sa Pa đến tìm tôi.
- Không biết có chuyện gì buồn, cô Nhuệ người yêu cậu bỏ nhà lên rừng Sả Xéng xem người ta đào vàng. Đất sụt làm mấy người chết. Cô Nhuệ cũng bị vùi, hiện chưa tìm thấy xác. Cách đây một tuần rồi.
Tôi không khóc được. Sự phũ phàng như nước buốt làm tôi tỉnh ra. Hôm đó tôi đi suốt đêm dọc theo dòng sông Nậm Thi. Dòng sông đã thay tôi khóc đến sáng âm thầm. Về sáng, một cơn mưa bất ngờ làm tôi bị cảm và căn bệnh phổi lại hoành hành dữ dội. Trở về nhà, tôi hộc ra nền một bãi máu và ngồi vào bàn, viết bài thơ đau nhất của đời mình. Bài ca về cây phong lan lìa vách đá xuống vực sâu trong một đêm mưa bão.
Đầu mùa xuân năm sau, có lần tôi ra đứng trên sườn dốc trước nhà xem mấy người dưới sông đánh cá. Tại đây, tôi bắt gặp một cây đào non cao hơn một gang tay. Tôi nhớ chỗ này là khoảng đất trước kia trái đào rơi xuống. Hồi ấy thị xã Lào Cai chưa được xây dựng lại sau chiến tranh biên giới, nơi đây còn rậm lắm. Tôi phát quang lau lách xung quanh và rào cây đào lại.
Cuối năm ấy cây đào đâm những nụ hoa đầu tiên. Nó thuộc giống đào Mèo nên hoa màu đỏ thẫm. Bao năm rồi, ngày Tết tôi ít đi chơi, thích ở nhà uống rượu bên hoa đào. Tôi ngồi hàng giờ dưới cây, mặc cho người đời bàn tán. Bao giờ tôi cũng rót mời hoa một chén. Khi linh hồn ngấm men, khi gió xuân hây hẩy thầm thì, tôi lại thấy hiện lên lãng đãng trong hoa nét má nồng nàn, thắm đỏ. Tôi biết người con gái lại về”.
Khuôn mặt thi sĩ lúc này nom bẩn thỉu và ngây dại. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy trên chiếc cằm lởm chởm râu lâu ngày không cạo của người đàn ông chưa vợ này đọng một giọt long lanh, không biết rượu hay là nước mắt. Anh nhìn ra cửa sổ hồi lâu. Tôi đoán anh đang nhớ về Sa Pa. Ngày ấy, Sa Pa còn những cây đào lớn. Ngày ấy, những vườn đào, vườn lê chưa nhường chỗ cho các nhà khách chen chúc như bây giờ. Ngày ấy, kinh tế thị trường chưa len lỏi vào mỗi căn phòng, góc phố và lòng người. Ngày ấy...
Hôm sau, tôi chia tay thi sĩ về miền đất xa. Nhớ những lời kể của anh, tôi viết lại nôm na, tạm gọi là truyện.
Bao giờ có dịp lên thị xã Lào Cai, bạn đừng hỏi xem thi sĩ họ Hoàng là ai. Bạn hãy lẳng lặng đi theo đường bờ sông về phía vùng ven thị xã. Thong thả vừa đi vừa hút thuốc, bạn sẽ đến một bãi bồi lớn. Tại đó bạn sẽ thấy một ngôi nhà nhỏ lợp mái tôn màu xanh da trời. Phía trước nhà, trên sườn dốc đổ xuống dải đường sát bãi bồi, đến nay vẫn còn một cây đào to, cứ đến mùa xuân lại trổ hoa đỏ rực.
Những người biết chuyện gọi đó là cây đào Tình Xuân.
Truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa
Ý kiến ()