Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 28/06/2024 02:04 (GMT +7)
Anh hùng Đoàn Sinh Hưởng kể chuyện giải phóng miền Nam
Thứ 3, 30/04/2019 | 12:28:44 [GMT +7] A A
Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng là một trong những người con Quảng Ninh góp mặt và có công lớn trong cuộc Tổng tiến công giải phóng Sài Gòn mùa xuân năm 1975. 44 năm đã trôi qua, song những ký ức về một thời binh nghiệp hào hùng, đặc biệt là khi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí ông.
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng. |
Từ lời thề dưới mái đình Trà Cổ
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng sinh năm 1949, trong một gia đình nông dân ở phường Bình Ngọc, TP Móng Cái ngày nay. Ông là hậu duệ của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài, một danh thần nổi tiếng dưới triều vua Trần Anh Tông. Có lẽ vì là hậu duệ nhà binh, nên từ nhỏ ông đã khát khao được vào quân ngũ. Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng cho hay, ngay từ nhỏ, ông đã được các cụ trong họ kể cho nghe nhiều giai thoại về tài chỉ huy binh lính của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài. Và cả cái tên của ông cũng được các cụ gửi gắm cho nhiều ý nghĩa: Đoàn Sinh Hưởng là sinh ra để hưởng cái phúc ấm của họ Đoàn.
Học theo những lời kể về binh nghiệp của tiên tổ, từ thuở nhỏ cậu bé Đoàn Sinh Hưởng đã say mê trò đánh trận giả. Trong mỗi cuộc chơi, cậu thường sắm vai thủ lĩnh, chủ trò. Cuộc chơi cũng chia hai phe ta và địch, cũng đào hào, đắp lũy, công đồn bằng những ụ cát, hố đất. Cậu bé Hưởng và bạn bè diễn tập bài binh bố trận như thật dựa trên những gì đã nghe kể về Tam quốc diễn nghĩa. Trong tất cả các nhân vật anh hùng của Tam quốc diễn nghĩa, cậu thích và thường tự xưng mình là Triệu Tử Long tung hoành ngang dọc trên cánh đồng làng.
Sau khi học xong cấp 2, chàng thanh niên Đoàn Sinh Hưởng đã đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ ở địa phương như: Bí thư Đoàn xã, Trung đội trưởng dân quân xã, thư ký đội sản xuất hợp tác xã nông nghiệp. Những năm 60 của thế kỷ trước, khí thế xung phong ra trận luôn sục sôi trong tâm trí những thanh, thiếu niên ở địa đầu Tổ quốc. Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể: “Sau chiến thắng trận đầu năm 1964, tôi và các bạn trong chi đoàn thanh niên đã phát động chiến dịch đào hầm, hào dọc các trục đường làng, ở những nơi công cộng. Chưa bao giờ chúng tôi lao động một cách say mê, như thể đã thống nhất với nhau rằng đây là công trình kỷ niệm quê hương trước khi được lên đường ra trận vậy".
Tân binh Đoàn Sinh Hưởng năm 1966. Ảnh tư liệu của nhân vật. |
Vào một buổi sáng đầu tháng 9/1966, đang cày ruộng bỗng thấy một đoàn thanh niên cầm cờ, đánh trống lên huyện khám tuyển quân sự, chàng trai Đoàn Sinh Hưởng liền bỏ trâu đó đi theo, năn nỉ đoàn cho bổ sung tên mình để khám sức khỏe. Kết quả, Đoàn Sinh Hưởng xếp loại sức khỏe A2, thiếu chiều cao một chút chứ nếu không đã có thể tuyển phi công. Năm đó, dù không nằm trong diện được đi bộ đội, nhưng Đoàn Sinh Hưởng vẫn quyết tâm xin đi. Sự thể là địa phương có 29 người được gọi nhập ngũ, trong đó bị khuyết 1 người do không đủ điều kiện sức khoẻ, Đoàn Sinh Hưởng đã xin thế chân. Năm đó, ông mới 17 tuổi.
Trong câu chuyện của vị tướng già, chúng tôi nhận ra, dù đã 53 năm trôi qua, bên cạnh sự háo hức, thì những cảm xúc lưu luyến quê hương trước ngày lên đường vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí ông. Trong hồi ký của mình, Anh hùng Đoàn Sinh Hưởng viết: "Gửi lại quê hương, bố, mẹ, anh, chị, em ruột thịt, người thân, bạn bè, cả một thời ấu thơ đầy ắp kỷ niệm và tình yêu với cô hàng xóm, ngày 28/9/1966, tôi háo hức lên đường”.
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng cho rằng: "Ngày 28/9 là ngày sinh thứ hai của tôi, ngày cuộc đời tôi sang trang mới, ngày mà cô hàng xóm Hoàng Thị Liễm và đám bạn tiễn tôi xuống tận bến đò ngang. Em đâu dám khóc nhưng khi đò sang sông, dáng em mảnh mai vẫn soi cùng bóng nước như một sự níu kéo, đợi chờ, hy vọng không thể nói thành lời. Để rồi gần chục năm sau tôi và em nên nghĩa vợ chồng. Tình yêu, tình nghĩa vợ chồng đã tiếp sức cho tôi suốt một thời trận mạc".
Với Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình đã hòa quyện cùng tình yêu quê hương, đất nước. Ông kể: “Đình Trà Cổ là một phần máu thịt của đời tôi. Có biết bao kỷ niệm về một thời thơ dại, trai trẻ của tôi gắn với ngôi đình... Dưới mái đình này, trước ngày lên đường nhập ngũ, tôi và mấy bạn trúng tuyển đợt ấy đã nguyện thề sẽ chiến đấu lập công, để không hổ thẹn với quê hương, tiên tổ”.
Lời thề dưới mái đình Trà Cổ là hành trang thiêng liêng mà chàng trai Đoàn Sinh Hưởng luôn mang theo. Ông chia sẻ: "Thế hệ chúng tôi ra đi mãi khắc ghi lời thề dưới mái đình Trà Cổ: Từ điểm đầu tiên của nét bút vẽ nên hình chữ S của Tổ quốc, chúng con nguyện chiến đấu đến cùng, nguyện cắm lá cờ chiến thắng ở miền Nam". Nhìn lại cuộc đời binh nghiệp của mình, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng nhận định: “Quê hương nghĩa nặng tình sâu, dòng tộc, gia đình, nghĩa mẹ, tình cha, đạo nghĩa thầy trò, tình cảm bạn bè đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi, sớm tạo cho tôi tính cách, bản lĩnh để làm người chiến sĩ”.
Đến chuyện cắm cờ giải phóng ở Sài Gòn
Những ngày đầu quân ngũ, Đoàn Sinh Hưởng được biên chế làm chiến sĩ của Sư đoàn 308 - Sư đoàn quân tiên phong, sư đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Quân đội ta. Ông được chỉ định ngay làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội 1, Trung đội 2, Đại đội 4, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 88.
Tướng Đoàn Sinh Hưởng năm 1970. Ảnh tư liệu của nhân vật. |
Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, khi mới 19 tuổi, Đoàn Sinh Hưởng được phong Dũng sĩ diệt Mỹ và được kết nạp Đảng ngay tại trận địa. Lúc đó, ông là Tiểu đội trưởng kiêm Trung đội phó Đại đội Cối 82 ly, Trung đoàn 88. Sau đó, ông vào Tây Nguyên, làm Đại đội trưởng Đại đội 9, Trung đoàn xe tăng 273, chỉ huy Đại đội tăng đánh trận nổi tiếng trên đường số 14, giải phóng Buôn Mê Thuột, tiến quân xuống giải phóng tiếp Phú Yên. Sau khi giải phóng Phú Yên, Đại đội xe tăng do Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy đã hành quân theo đường chiến lược vòng về phía Tây vào Sài Gòn.
Đến Cầu Bông, cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn, Đại đội 9 bắn tỉa 12 xe địch; tiếp tục tiến đánh trại Quang Trung tại ngã tư Bảy Hiền; đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu Ngụy. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông sử dụng xe tăng địch để đánh địch, trong biên chế của Đại đội 9, có nhiệm vụ là đi đầu mở đường cho Quân đoàn 3 tiến vào phía Tây Sài Gòn. Nhiệm vụ là phải giữ bằng được cầu Bông (nay là cầu An Hạ), vì nếu để địch chiếm cầu này hoặc cầu bị gãy thì ảnh hưởng đến cơ động của Quân đoàn 3 và các đơn vị binh khí hỏa lực tiến về phía Tây Sài Gòn.
Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng đã chỉ huy đơn vị tiến công theo hướng Tây vào Sài Gòn vào sáng 29/4. Ông đã vượt qua các mục tiêu trọng điểm của địch, tiến thẳng lên cầu Bông. Quá trình hành quân cơ động, xe tăng Đại đội 9 chỉ còn lại 4 chiếc (do xe hỏng dọc đường không khắc phục được).
Tại cầu Bông, địch đã cho một đoàn 24 chiếc xe tăng ra chặn đường tiến quân của Đại đội 9. Đoàn Sinh Hưởng đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy Đại đội bắn cháy 12 xe tăng địch và cùng lực lượng bộ binh bắt sống 12 chiếc. Đây là trận đánh mà tỷ lệ ta - địch là 1-6, chưa có tiền lệ, được các giáo sư của Liên Xô đánh giá là trường hợp "độc nhất vô nhị" trong chiến tranh. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ cầu Bông, Đại đội 9 tiếp tục thọc sâu vào bên trong, đánh qua Củ Chi, Thành Quan 5, Trại huấn luyện Quang Trung.
Đến 13 giờ 30 phút ngày 29/4, 4 xe của Đại đội 9 do ông chỉ huy đã vượt qua ngã ba Bà Quẹo, cách ngã tư Bảy Hiền khoảng 3 cây số. Ông củng cố đội hình và chuẩn bị để tiến vào Dinh Độc Lập, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ, Chính ủy Quân đoàn Đặng Vũ Hiệp giao nhiệm vụ cho Đại đội 9 chờ lực lượng phía sau để đánh vào Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu Ngụy. Sáng 30/4, xe tăng Đại đội 9 cùng với các đơn vị bộ binh và các đơn vị xe tăng của Sư đoàn 273 tung hoành ngang dọc đánh sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu Ngụy.
Thiếu úy Đoàn Sinh Hưởng trên chiếc xe tăng đánh trận Cầu Bông ngày 29/4/1975. Ảnh tư liệu của nhân vật. |
Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4, xe tăng Đại đội 9, lực lượng bộ binh Sư đoàn 10, xe tăng Đại đội 5, Lữ đoàn 273 và Tiểu đoàn 1 của Lữ đoàn 273 cùng các đơn vị bạn chiếm được toàn bộ trụ sở tòa nhà Bộ Tổng tham mưu Ngụy. Xe tăng 982 do chính trị viên Đại đội tăng 5 chỉ huy đã tiến thẳng lên ngôi nhà chính trụ sở Bộ Tổng tham mưu Ngụy để yểm trợ cho bộ binh lên tầng gác hạ lá cờ ba sọc xuống, kéo cờ giải phóng lên.
Thiếu úy Đoàn Sinh Hưởng đã chỉ huy Đại đội tiếp tục yểm trợ cho bộ binh Trung đoàn 28 kiểm soát các tòa nhà, chiếm trụ sở của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng hòa, thu toàn bộ con dấu, kiếm và gậy chỉ huy. Lúc này, các cánh quân cũng đã chiếm được Dinh Độc Lập và các mục tiêu quan trọng ở Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể: "Tất cả các cánh quân hò reo và chào mừng ngày chiến thắng. Trưa và chiều 30/4, cả thành phố ngập tràn không khí chiến thắng. Nhân dân đổ ra chào đón quân giải phóng về Đô thành. Sài Gòn ngập tràn nắng và cờ hoa. Một bầu không khí náo nhiệt nhưng yên bình, không mảy may có một biểu hiện hận thù thường thấy khi kết thúc cuộc chiến có người thắng, kẻ thua. Đêm đầu tiên của ngày toàn thắng, sau cái ồn ào, hừng hực ngất trời của niềm vui chiến thắng, chúng tôi dành một khoảng lặng để nghĩ về đồng chí, đồng đội thân yêu của mình đã ngã xuống trong từng trận đánh, trên những nẻo đường tiến về giải phóng Sài Gòn; đặc biệt những đồng đội đã hy sinh trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, đã ngã xuống ngay cửa ngõ Sài Gòn trước ngày toàn thắng, mà nước mắt chúng tôi tuôn trào”.
Anh hùng Đoàn Sinh Hưởng chỉ huy chiếc xe tăng M48 số hiệu 35, tiến đánh Sài Gòn ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu của nhân vật. |
Quê hương nghĩa nặng, tình sâu
Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thiếu uý Đoàn Sinh Hưởng mới 26 tuổi đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Dù lập được nhiều chiến tích, song ông chỉ mong kết thúc chiến tranh sẽ xin về làm công nhân một đơn vị nào đó, hoặc sẽ trở về quê nhà xây dựng tổ ấm với cô Liễm, mối tình đầu của ông, cùng lời ước hẹn một ngày trở lại.
Tuy nhiên, cuộc đời binh nghiệp của ông còn tiếp tục được nối dài. Ông được Tổng cục Chính trị triệu tập tham gia đoàn cán bộ, chiến sĩ có nhiều thành tích trong chiến đấu đến nói chuyện nhiều nơi ở Sài Gòn và nhiều trường đại học, khu dân cư. Ông còn được cử đi học ở Liên Xô, trở về làm Lữ đoàn trưởng khi 34 tuổi, rồi Sư đoàn trưởng khi ở tuổi 37, làm Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp khi 41 tuổi, rồi sau đó về làm Tư lệnh Quân khu 4. Khi về hưu, ông vẫn phối hợp với nước bạn Lào diệt phỉ, góp phần tạo lập hành lang biên giới ổn định, để nhân dân hai bên yên tâm sản xuất, sinh hoạt; xây dựng mối quan hệ chiến lược Việt - Lào.
Ở Quảng Ninh hiện nay, không nhiều người có cuộc đời binh nghiệp dài và nhiều chiến công như Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng. Ông kể: “Từ ngày tôi rời đất Bình Ngọc, Móng Cái, qua bến đò ngang, ca vang khúc hát “Hành quân xa”, cho đến khi thôi giữ chức Tư lệnh Quân khu 4, vừa tròn 43 năm quân ngũ”. Bà Hoàng Thị Liễm, phu nhân của Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, cho biết: "Ở quê tôi, anh Hưởng là tấm gương cho các em phấn đấu, noi theo. Em gái tôi là Hoàng Thị Hồng Chiêm còn nằng nặc đòi gia đình cho em vào Nam đánh Mỹ với anh Hưởng. Sau này, dù không được vào Nam theo nguyện vọng, nhưng em cũng đã chiến đấu anh dũng và hy sinh ở Pò Hèn, tháng 2/1979".
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng luôn tự hào về truyền thống của quê hương, dòng tộc: “Hạnh phúc biết bao khi sinh ra, tôi đã được thừa hưởng truyền thống của đại gia đình, dòng tộc họ Đoàn. Tôi lớn lên bằng củ khoai, bát cháo đồng quê, lời ru của mẹ, câu chuyện kể của cha trong âm hưởng lao xao vi vút tiếng gió phi lao và tiếng biển khi ào ạt bão giông, khi rì rầm sâu lắng. Quê hương nghĩa nặng, tình sâu, tình cảm mẹ, cha, anh chị em ruột thịt, tình nghĩa thầy trò, bạn bè ấu thơ và tình yêu tuổi trẻ... đã chắp cánh ước mơ tôi, nâng bước tôi vượt qua biết bao hiểm nguy một thời trận mạc và khó khăn trong cuộc sống đời thường”. Bởi vậy, dù bận công tác đến mấy, ông cũng thường xuyên trở về quê hương Quảng Ninh. Hiện tại, công việc của ông với nước bạn Lào đã hoàn tất, ông đang tính trở về Quảng Ninh sinh sống trong căn nhà bên bờ Vịnh Hạ Long để vơi bớt nỗi nhớ quê hương.
Phạm Học
Liên kết website
Ý kiến ()