Tất cả chuyên mục

Từ 1961-1965, đất nước ta vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Trên hậu phương lớn miền Bắc, Quân đội ta đã khẩn trương xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965), nâng cao một bước quan trọng trình độ chính quy, hiện đại.
Nhiệm vụ và phương châm là: Xây dựng Quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại. Trong ba năm đầu (1961-1963), Quân đội ta đã giải quyết thành công vấn đề tổng quân số, kiện toàn tổ chức, biên chế, giữ một lực lượng thường trực có quân số phù hợp (đến năm 1963, miền Bắc nước ta tiếp tục giữ mức quân thường trực là 173.500 người), tích cực xây dựng lực lượng hậu bị, phát triển đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trước mắt và chuẩn bị mở rộng lực lượng khi có chiến tranh.
![]() |
Các cựu chiến binh ôn lại Chiến thắng trận đầu 5-8-1964 bên bờ sông Cửa Lục (Bãi Cháy). Ảnh: Ngọc Hà |
Căn cứ vào nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, Quân đội ta đã chủ động xây dựng các binh đoàn chủ lực cơ động có khả năng cơ động nhanh, sức chiến đấu mạnh và các binh chủng kỹ thuật, trước hết là phòng không - không quân, pháo binh, đặc công…; thành lập Quân chủng Phòng không - Không quân (22-10-1963) và Quân chủng Hải Quân (3-1-1964); đẩy mạnh huấn luyện gắn liền với thực tiễn chiến đấu, nâng cao năng lực tổ chức chỉ huy của cán bộ, trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội theo phương hướng tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng. Công tác xây dựng Đảng và các mặt công tác chính trị được coi trọng. Chất lượng lãnh đạo của Đảng trong quân đội được nâng lên. Hệ thống nhà trường quân đội được củng cố và mở rộng. Công tác tổng kết kinh nghiệm xây dựng, chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc chiến tranh đang diễn ra ở miền Nam và ở nước Lào được xúc tiến khẩn trương. Việc mở đường vận tải trên bộ và trên biển đã tạo điều kiện để miền Bắc đưa ngày càng nhiều đơn vị chiến đấu, vũ khí trang bị và các nhu cầu vật chất khác vào chiến trường miền Nam.
Trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của mình, đây là lần đầu tiên Quân đội ta được tập trung xây dựng trong một thời gian dài và trong điều kiện hoà bình. Quân đội ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về xây dựng chính quy, hiện đại theo kế hoạch dài hạn, về giải quyết các mối quan hệ giữa xây dựng với sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, giữa xây dựng lực lượng thường trực và lực lượng hậu bị, giữa kinh tế với quốc phòng, giữa xây dựng, bảo vệ miền Bắc với đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam. 10 năm xây dựng chính quy, hiện đại (1954-1964) là một giai đoạn rất quan trọng. Với phương hướng xây dựng đúng đắn, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện tốt, Quân đội ta đã nâng cao một bước rõ rệt sức mạnh chiến đấu. Đồng thời, đã tạo ra những cơ sở thuận lợi cho việc mở rộng lực lượng, hoàn thành những nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu ngày càng lớn, khẩn trương và phức tạp trong những bước tiếp theo.
Từ năm 1961, để đối phó với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược quân sự toàn cầu, từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Miền Nam Việt Nam được Mỹ dùng làm nơi thử nghiệm chiến lược này với loại hình chiến tranh mới được gọi là “Chiến tranh đặc biệt”. Chúng sử dụng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chủ yếu; Mỹ cung cấp vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, tài chính và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự và dân sự từ trung ương đến các tỉnh, đặc khu, các sư đoàn và tiểu đoàn; đồng thời, thực hiện ba biện pháp chiến lược cơ bản: Tìm diệt bộ đội chủ lực và cơ sở cách mạng, bình định để nắm dân, phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong toả biên giới, vùng biển để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc. Trong đó, bình định được coi là mục tiêu chủ yếu, tìm diệt là biện pháp hỗ trợ cho bình định đạt hiệu quả.
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, địch đã tổ chức lại lực lượng (thành lập 4 quân đoàn chủ lực, phân chia chiến trường thành 4 vùng chiến thuật). Được cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hoả lực Mỹ chi viện, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.966 tên, vùng giải phóng được giữ vững và mở rộng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1-1963), một chiến thắng mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, đồng thời mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” sôi nổi khắp miền Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã làm cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Nhằm hạn chế những tổn thất và cứu nguy cho thất bại ở chiến trường miền Nam, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (8-1964), đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân lần thứ nhất hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Ngày 5-8-1964, chúng mở cuộc tiến công “Mũi tên xuyên”, sử dụng 64 lần/chiếc máy bay đánh phá ồ ạt các khu vực sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (Vinh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Với tinh thần cảnh giác cao, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã mưu trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác. Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân cả nước. Ngày 5-8 trở thành Ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Trên cơ sở những thắng lợi trong năm 1963 và đầu năm 1964, tháng 10-1964, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông - Xuân 1964-1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Các chiến trường chính là miền Đông Nam Bộ, miền Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Sau chiến thắng Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965), chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ hoàn toàn bị phá sản, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới.
(Còn nữa)
Theo Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam
Ý kiến ()