Tất cả chuyên mục
Chủ Nhật, 22/12/2024 17:09 (GMT +7)
Kỳ họp thứ 16: HĐND tỉnh nghe báo cáo, tờ trình
Thứ 4, 06/12/2023 | 08:55:26 [GMT +7] A A
Ngay sau phiên khai mạc Kỳ họp thứ 16, các đại biểu HĐND tỉnh khóa XIV đã nghe các báo cáo, tờ trình, dự thảo các nghị quyết. Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, chủ trì.
Đồng chí Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh trình bày Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh năm 2023, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024: "Quảng Ninh tiếp tục giữ vững vị trí là một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc”.
Trong báo cáo, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, tỉnh tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, xây dựng chương trình, kế hoạch, kịch bản tăng trưởng kinh tế để thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết số 12 của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 128 của HĐND tỉnh và thực hiện chủ đề công tác năm về “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống Nhân dân”. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, ý chí tự lực, tự cường, chung sức, đồng lòng, kiên trì, nỗ lực, chủ động vượt qua khó khăn, thử thách. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm, thực hiện tái cơ cấu kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, du lịch, đầu tư công. Nắm bắt được xu thế, khai thác vị trí địa chiến lược, lợi thế vượt trội, đi trước một bước của hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại; quản lý, phân bổ có hiệu quả nguồn lực; quyết liệt triển khai thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, đưa kinh tế, xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển, hoàn thành và vượt 12/12 chỉ tiêu kinh tế, xã hội năm 2023.
Kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định; tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tăng 11,03%. Đây là lần đầu tiên Quảng Ninh đứng thứ nhất Vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 3 cả nước, là năm thứ 9 liên tiếp (từ năm 2015 đến nay) đạt mức tăng trưởng kinh tế hai con số, trong đó: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 11,47%; khu vực Dịch vụ tăng 12,53%; thuế sản phẩm tăng 7,92%; khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 4,43%. Quy mô nền kinh tế ước đạt 315.839 tỷ đồng, tăng 17% so cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người ước đạt 9.500 USD, tăng 14% so cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 104.217 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 14,2% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong tỉnh ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 12,9% so cùng kỳ. Khách du lịch ước đạt 15,5 triệu lượt, tăng 33,6% so với cùng kỳ, doanh thu du lịch ước đạt 33.480 tỷ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ. Vốn tín dụng huy động tăng 12,6% so với cùng kỳ. Toàn tỉnh có 13/13 địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, tỉnh Quảng Ninh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Hết năm 2023, có 56/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng thêm 5 xã); có 28/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng thêm 5 xã) và có 4/13 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tăng thêm 2 huyện là Vân Đồn và Hải Hà).
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 55.632 tỷ đồng, tăng 5% dự toán Trung ương giao, tăng 3% dự toán tỉnh, tăng 4% so với cùng kỳ, trong đó: Thu xuất nhập khẩu ước đạt 16.000 tỷ đồng, tăng 39% dự toán Trung ương giao, tăng 33% dự toán Tỉnh giao, bằng 98% cùng kỳ; thu nội địa ước đạt 39.632 tỷ đồng, bằng 95% dự toán Trung ương giao, bằng 94% dự toán tỉnh, tăng 7% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 29.543 tỷ đồng, bằng 100% dự toán tỉnh, tăng 18% so với cùng kỳ.
Tổng vốn thu hút đầu tư trong và ngoài nước ước đạt 5,0 tỷ USD, trong đó: Thu hút vốn đầu tư trong nước đạt 1,9 tỷ USD, vượt 17,3% kế hoạch; thu hút vốn FDI đạt 3,1 tỷ USD, gấp 3,1 lần kế hoạch năm, hiện tại dẫn đầu cả nước. Đến nay, toàn tỉnh có 174 dự án FDI đến từ 19 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Năm 2023, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục tạo bước chuyển lớn trong phát triển văn hoá - xã hội, con người, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao mức sống và chất lượng sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng miền. Các cấp, các ngành thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, các chế độ chính sách đối với gia đình người có công với Cách mạng, hộ nghèo, hộ khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Toàn tỉnh không còn hộ nghèo theo tiêu chí Trung ương giai đoạn 2021-2025; toàn tỉnh đã ban hành quy định chuẩn nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh (cao gấp 1,4 lần so với toàn quốc). Tổng chi an sinh xã hội ước đạt 1437 tỷ đồng, tăng 21,8% so với cùng kỳ; hỗ trợ, sửa chữ xây mới nhà ở cho 1450 hộ gia đình người có công với cách mạng, với tổng kinh phí 81,7% tỷ đồng. Hoàn thành xóa 441 nhà tạm, nhà ở dột nat phát sinh năm 2023, với số tiền huy động trên 32 tỷ đồng; Tạo việc làm với tăng thêm cho 21.000 lao động, vượt 5% so với kế hoạch. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ước đạt 86,46% (gấp đôi so với bình quân chung cả nước), trong đó tỷ lệ có bằng cấp, chứng chỉ chiếm 50%
Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Ban hành chính sách tiếp tục hỗ trợ trẻ mầm non, học sinh phổ thông, cơ sở giáo dục ở các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn cho khoảng 13.662 đối tượng, tại 65 cơ sở giáo dục, với kinh phí khoảng trên 31 tỷ đồng/năm; Thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả tích cực, tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT đạt 97,7%, cao hơn so với năm 2022. Có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế; Duy trì vững chắc, đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; đạt chuẩn phổ capak giáo dục tiểu học mức độ 3 (đứng thứ nhất trong tổng số 31 tỉnh, thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3); Chuẩn phổ cập trung học cơ sở mức độ 2 (đứng thứ nhất trong tổng số 23 tỉnh, thành phố đạt chuẩn THCS mức độ 2). Đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn 90,6% (cao hơn toàn quốc 1,6%). Toàn tỉnh có 90,22% trường đạt chuẩn quốc gia.
Hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em đạt nhiều kết quả. Các chỉ tiêu chương trình mục tiêu về y tees được triển khai thực hiện đảm bảo kế hoạch, hết năm 2023 toàn tỉnh đạt 55 giường bệnh, 15 bác sĩ, 2,7 dược sĩ đại học và 24 điều dưỡng trên 1 vạn dân. Tuổi thọ bình quân của người dân Quảng Ninh ước 73,8 tuổ (bằng tuổi thọ bình quân của toàn quốc). Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,3% dân số toàn tỉnh (toàn quốc là 93,2%)
Với những kết quả quan trọng, nổi bật trong năm 2023 và nhìn lại từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026 đến nay, với những chỉ tiêu và minh chứng thực tiễn, có thể khẳng định, Quảng Ninh đã tận dụng tốt cơ hội, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức, đoàn kết, giữ vững sự ổn định, đổi mới và phát triển ngày càng bền vững, hiệu quả hơn; tiếp tục giữ vững vị trí là một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc.
Năm 2024, năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Tỉnh đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức dự báo có thể nhiều hơn. Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Nghị quyết số 20 ngày 27/11/2023 của Tỉnh ủy về phương hướng nhiệm vụ năm 2024 và chủ đề công tác là “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”, UBND tỉnh xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Trong đó, đặt ra mục tiêu phấn đấu: Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt trên 10%. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 55.600 tỷ đồng, trong đó thu xuất nhập khẩu đạt trên 13.000 tỷ đồng và thu nội địa phấn đấu đạt số thu cao nhất. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng trên 10%, trọng điểm là thu hút vốn FDI ít nhất 3,0 tỷ USD; phát triển mới ít nhất 2.000 doanh nghiệp. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 11%. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 73%. Giữ vững vị trí nhóm đứng đầu cả nước về các Chỉ số PCI, PAR Index, SIPAS và PAPI.
Để hoàn thành những mục tiêu trên, đồng chí Quyền Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, toàn tỉnh cần phải tập trung cao độ cho những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong năm 2024, như sau: Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trên nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao, yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách và đầu tư công; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; xây dựng chính quyền địa phương các cấp liêm chính, phục vụ, thực sự “của dân, do dân, vì dân”, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đảm bảo công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; giữ vững chủ quyền biên giới đất liền, biển đảo quốc gia.
Đồng chí Nguyễn Văn Hồi, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh: “Triển khai đồng bộ, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu KT-XH năm 2023”
Trình bày tóm tắt kết quả công tác tham gia xây dựng chính quyền của Ủy ban MTTQ tỉnh Quảng Ninh năm 2023 và những vấn đề cử tri, nhân dân quan tâm, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh nhấn mạnh: Năm 2023, MTTQ đã tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia có trách nhiệm và hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đặc biệt là các chủ trương, định hướng của tỉnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo giữ vững quốc phòng an ninh. Trong đó, rõ nhất phải kể đến đó là công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong việc thực hiện chủ đề công tác năm về "Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống Nhân dân”; chú trọng tổ chức và tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia các hoạt động chào mừng các sự kiện, các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh và các địa phương... Bên cạnh đó, MTTQ các cấp cũng rất chủ động trong việc nắm bắt tình hình nhân dân, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để kịp thời phản ánh với Quốc hội, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền các cấp. Qua đó góp phần quảng bá nâng cao vị thế hình ảnh Quảng Ninh cũng như thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.
Chủ động cùng các tổ chức thành viên trong việc phối hợp với chính quyền các cấp triển khai đồng bộ, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh trong năm 2023. Cụ thể, trong triển khai thực hiện chủ đề công tác năm 2023, ngay đầu năm đã huy động các nguồn lực xã hội trao tặng 115.041 suất quà Tết với tổng trị giá trên 72,475 tỷ đồng với mục tiêu “mọi nhà, mọi người có Tết - không để ai bị bỏ lại phía sau"; huy động gần 3,329 tỷ đồng hỗ trợ người mắc bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật, người già yếu, người có hoàn cảnh khó khăn phát triển sản xuất, khám chữa bệnh; triển khai huy động nguồn lực xã hội, ngày công, vật liệu để thực hiện chương trình xoá toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn toàn tỉnh với tổng kinh phí vận động, huy động trên 42,688 tỷ đồng; tổ chức rất thành công Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc đồng loạt tại 1.452/1.452 khu dân cư trên toàn tinh vào Chủ nhật, ngày 12/11/2023 với chủ đề "Khát vọng xây dựng tỉnh Quảng Ninh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh và hiện đại”...
Trong triển khai các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh, đã tổ chức rất thành công Liên hoan tiếng hát khu dân cư tỉnh Quảng Ninh năm 2023 ở cả 3 cấp; vận động các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh hưởng ứng, tham gia Cuộc thi tìm hiểu "Quảng Ninh 60 năm xây dựng và phát triển"; tổ chức tuyên dương 55 mô hình, phần việc tiêu biểu trong thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; phối hợp với UBND tỉnh tổ chức tổng kết Phong trào thi đua xây dựng “Xã, phường, thị trấn văn minh” giai đoạn 2020-2022...
Cùng với đó, tích cực phối hợp triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ quan trọng của MTTQ các cấp, của HĐND, UBND trong vận động nhân dân phát huy dân chủ, tích cực tham gia xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh.
Về ý kiến phản ánh tâm tư nguyện vọng, kiến nghị, cử tri và nhân dân đánh giá cao Thường trực HĐND, UBND tỉnh đã rất nghiêm túc, trách nhiệm, quyết liệt, sâu sát trong chỉ đạo, đôn đốc giám sát đối với cơ quan có thẩm quyền trong việc quan tâm giải quyết dứt điểm các ý kiến kiến nghị của cử tri và nhân dân đã phản ánh tại các kỳ họp thường lệ của HĐND tỉnh.
Qua nắm tình hình nhân dân, dư luận xã hội và phản ánh của các tổ chức thành viên, các cơ quan truyền thông, Ủy ban MTTQ tỉnh tổng hợp phản ánh các nhóm vấn đề mà cử tri và nhân dân quan tâm gửi đến kỳ họp thường lệ cuối năm 2023 xem xét như liên quan đến lao động, việc làm; an sinh xã hội và đời sống nhân dân, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều cử tri và nhân dân mong muốn HĐND, UBND tỉnh tiếp tục kéo dài thời gian thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân; có giải pháp hiệu quả hơn nữa để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh. Quyết liệt, tập trung triển khai đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, để đảm bảo đời sống cho người lao động ở ngoài tỉnh đến Quảng Ninh công tác, làm việc.
Liên quan đến quản lý Nhà nước về quy hoạch, đầu tư xây dựng, cử tri và nhân dân đề nghị UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo làm rõ thời gian vừa qua một số cơ quan báo chí, truyền thông phản ánh tình trạng một số dự án trên địa bàn thành phố Cẩm Phả triển khai thi công làm ảnh hưởng vùng đệm Vịnh Hạ Long; việc sớm đưa tuyến đường nối giữa đường tỉnh lộ 334 với Quốc lộ 18 do có giao cắt với đường sắt của Công ty Tuyển than Cửa Ông và hiện chưa có cơ quan nhận bản giao quản lý và vận hành...
Cử tri và nhân dân cũng kiến nghị nhiều nội dung liên quan đến chăm sóc sức khỏe nhân dân; công tác giáp dục và đào tạo, chế độ chính sách.
Đồng chí Lương Phúc Sơn, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh: “Đảm bảo việc giải quyết vụ án, vụ việc của các cơ quan chức năng đúng pháp luật, không xảy ra oan sai”
Năm 2023, mặc dù có nhiều khó khăn, song Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội và ngành giao, với 60 chỉ tiêu vượt, 66 chỉ tiêu đạt. Năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân hai cấp Quảng Ninh, thụ lý khởi tố hình sự 1.353 vụ/2.668 bị can, giảm 119 vụ (8,08%) vụ và 61 bị can (2,23%) so với cùng kỳ 2022; kiểm sát giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính mới 3.815 vụ, việc, giảm 15 vụ, việc (0,4%). Trong đó, khiếu kiện hành chính 227 vụ, giảm 82 vụ (26,5%); có trên 95% các vụ liên quan đến công tác thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án.
Năm 2023, tình hình tội phạm tuy giảm 8,08%, không có diễn biến bất thường, nhưng còn nhiều tiềm ẩn, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em tăng, tội làm và sử dụng giấy tờ giả như giấy phép lái xe, đăng ký xe giả tăng mạnh; tội phạm công nghệ cao vẫn tăng với nhiều thủ đoạn và phương thức mới tinh vi hơn; tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tăng, đối tượng phạm tội có cả cán bộ, công chức nhà nước và học sinh. Tình hình thanh thiếu niên phạm tội tăng 17,4%. Các vụ khiếu kiện hành chính giảm 26,5%, tập trung chủ yếu trong quản lý đất đai.
Viện Kiểm sát các cấp đã thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát tư pháp, đảm bảo việc giải quyết vụ án, vụ việc của các cơ quan chức năng đúng pháp luật, không xảy ra oan sai; nhiều vụ án lớn, phức tạp đã được điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, nhất là các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Làm tốt công tác tham mưu trong đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.
Ngoài ra, Viện kiểm sát 2 cấp đã kiểm sát 100% việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; ban hành 1.161 yêu cầu xác minh, trực tiếp kiểm sát 22 cuộc. Qua kiểm sát, đã yêu cầu khởi tố 41 vụ/17 bị can, ban hành 173 kiến nghị vi phạm và 102 kiến nghị phòng ngừa với các cơ quan chức năng. Chủ động tiến hành một số hoạt động điều tra, kiểm sát chặt chẽ việc thu thập chúng cứ, nâng cao chất lượng yêu cầu điều tra. Qua đó, chất lượng công tác điều tra, truy tố được nâng lên: Không có vụ án nào bị oan, không có trường hợp nào bắt, giữ hình sự phải xử lý hành chính; truy tố đúng hạn, đúng tội danh đều vượt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Thời gian tới Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng và UBND cấp huyện tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân để phòng ngừa tội phạm nói chung, nhất là các tội phạm gây rối trật tự công cộng, xâm hại tình dục trẻ em, tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tội làm, sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức, tội phạm lừa đảo, tội phạm công nghệ cao...
Tiếp tục tăng cường công tác giải phóng mặt bằng, chú trọng việc đối thoại, giải quyết các kiến nghị của nhân dân trong quá trình triển khai các dự án để giảm thiểu việc khiếu kiện sau khi có quyết định hành chính
Đồng chí Hoàng Văn Tiền, Chánh án TAND tỉnh: “Xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án, nhất là các vụ án dư luận xã hội quan tâm được Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Trung ương, của tỉnh đưa vào diện theo dõi”
Thông tin về kết quả công tác năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 của TAND hai cấp tỉnh Quảng Ninh, Chánh án TAND tỉnh Hoàng Văn Tiền nhấn mạnh, công tác xét xử của TAND hai cấp của tỉnh đã góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh và các nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2023.
Về công tác giải quyết, xét xử các loại án, năm 2023, TAND hai cấp tỉnh đã thụ lý 5.263 vụ; đã giải quyết, xét xử 4.213 vụ, việc các loại (so với cùng kỳ giảm 218 vụ, việc; số vụ án đã giải quyết giảm 187 vụ, việc).
Trong đó về thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự, TAND hai cấp của tỉnh đã thụ lý tổng số 1.448 vụ, 3.109 bị cáo (giảm 202 vụ so với cùng kỳ); đã giải quyết, xét xử 1.299 vụ, 2.741 bị cáo (đạt 89,7%).
Điều đáng nói là năm 2023, nhiều vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án được dư luận xã hội quan tâm được Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Trung ương, của tỉnh đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo đã được TAND tỉnh tập trung nghiên cứu, đưa vụ án ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật.
Cụ thể, đã đưa ra xét xử 1 vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Trung ương theo dõi chỉ đạo; 2 vụ án Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh theo dõi, chỉ đạo; 1 vụ án dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Trong đó có vụ án Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cùng đồng phạm) bị VKSND Tối cao truy tố về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh; vụ án Phạm Văn Phả cùng đồng phạm (Vụ án Đường sông 3) bị truy tố về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Tham ô tài sản”, “Đưa hối lộ”, “Nhận hối lộ”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước"; vụ Việt Á xảy ra tại Đông Triều; vụ Vi phạm đấu thầu, đưa, nhận hối lộ xảy ra tại Sở Giáo dục và Đào tạo.
Việc đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án hình sự của Tòa án đã góp phần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục người dân chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.
Về kết quả giải quyết, xét xử các vụ, việc hành chính, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động, năm 2023, TAND hai cấp của tỉnh đã thụ lý 3.815 vụ, việc (giảm 15 vụ, việc so với cùng kỳ); đã giải quyết, xét xử 2.914 vụ, việc (giảm 40 vụ, việc so với cùng kỳ), đạt tỷ lệ chung 76% (giảm 1% so với cùng kỳ). Quá trình giải quyết các loại án trên Tòa án luôn chú trọng công tác hòa giải, đối thoại, nên trong năm 2023 tỷ lệ các vụ, việc hòa giải thành, đối thoại thành đạt tỷ lệ cao, chiếm 53% trên tổng số vụ việc đã giải quyết.
Đối với công tác thi hành án hình sự và miễn giảm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước, TAND hai cấp đã ra quyết định thi hành án đối với 2.537 người chấp hành án; ra quyết định tạm hoãn chấp hành hình phạt tù cho 51 bị án; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho 5 bị án; xét giảm án và tha tù trước thời hạn cho 1.192 phạm nhân.
Triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2024, TAND hai cấp tỉnh Quảng Ninh sẽ tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, Ban Cán sự Đảng TAND tối cao về phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 và chủ đề năm công tác của tỉnh. Thực hiện tốt các giải pháp đột phá để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại án; phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu, yêu cầu công tác đề ra. Tập trung làm tốt công tác hòa giải, đối thoại; bảo đảm xét xử nghiêm minh, khách quan, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt người phạm tội.
Đồng thời chú trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu; bám sát chỉ đạo của TAND tối cao về triển khai dự án xây dựng nền tảng xét xử trực tuyến dùng chung cho TAND các cấp.
Tại kỳ họp, Chánh án TAND tỉnh cũng kiến nghị một số nội dung sau: UBND các cấp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để phòng ngừa tội phạm nói chung trong trường học, cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư; quản lý tốt các cơ sở kinh doanh có điều kiện; nâng cao trách nhiệm tổ hòa giải ở cơ sở. UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng và các địa phương làm tốt công tác quản lý đất đai, các lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
Đồng chí Đinh Khắc Khang, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh: "Tập trung mọi nguồn lực để tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc có điều kiện thi hành"
Trình bày tóm tắt Báo cáo kết quả công tác năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 của ngành Thi hành án dân sự tỉnh, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh cho biết: Trong năm 2023, tổng số việc phải thi hành là 8.437 việc, trong đó: Số có điều kiện thi hành là 7.208 việc; số chưa có điều kiện thi hành (đã trừ số việc chưa có điều kiện chuyển số theo dõi riêng) là 1.158 việc. Trong số việc có điều kiện thi hành, đã giải quyết thi hành xong 6.321 việc, tăng 49 việc (0,8%) so với cùng kỳ năm 2022; đạt tỷ lệ 87,69% (cao hơn 9,18 % so với tỷ lệ cùng kỳ năm 2022 và vượt 2,19% so với chỉ tiêu Tổng cục THADS sự giao).
Tổng số tiền phải thi hành là 3.125 tỷ 737 triệu 471 nghìn đồng, trong đó, số có điều kiện thi hành là 918 tỷ 825 triệu 676 nghìn đồng; số chưa có điều kiện thi hành (đã trừ số tiền chưa có điều kiện chuyển số theo dõi riêng) là 1.124 tỷ 515 triệu 901 nghìn đồng. Trong số có điều kiện thi hành, đã thi hành xong 514 tỷ 862 triệu 772 nghìn đồng, giảm 3 tỷ 247 triệu 289 nghìn đồng (0,6%) so với cùng kỳ năm 2022; đạt tỷ lệ 56,03% (cao hơn 5,21 % so với tỷ lệ cùng kỳ năm 2022 và vượt 9,73% so với chỉ tiêu Tổng cục THADS giao).
Về công tác theo dõi thi hành án hành chính, trong năm 2023, tổng số bản án, quyết định hành chính các cơ quan THADS đã thực hiện theo dõi thi hành là 33 việc (trong đó, số việc năm trước chuyển sang là 6 việc, số việc thụ lý mới là 27 việc). Trong số 33 việc có 7 bản án Tòa án đã ban hành Quyết định buộc THAHC và 26 bản án chưa có Quyết định buộc THAHC của Tòa án. Đối với 7 vụ việc có Quyết định buộc THAHC, đã thi hành xong 5 vụ việc, còn lại 2 vụ việc các cơ quan Nhà nước vẫn đang tổ chức THAHC. Đối với 26 bản án chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng chưa có quyết định buộc THAHC, đã thi hành xong 20 việc, còn 6 vụ việc chưa thi hành xong, các cơ quan THADS đang tiếp tục theo dõi.
Bên cạnh những nội dung trên, Cục THADS tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ khác trong thi hành án, như: (1) Cơ bản ra quyết định thi hành án đảm bảo đúng quy định của pháp luật đối với 100% bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật; (2) Tiếp tục thi hành có hiệu quả các khoản thu hồi tiền, tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; (3) Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra và theo dõi việc thi hành đối với 100% bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính có nội dung theo dõi; (4) Bảo đảm xác minh điều kiện thi hành án, phân loại chính xác, đúng pháp luật việc thi hành án dân sự; (5) Thực hiện tốt công tác tổ chức, cán bộ, không để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS; (6) Trả lời bảo đảm chất lượng, đúng trình tự, thủ tục và thời hạn 100% số văn bản xin ý kiến chỉ đạo; (7) Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như trên thì công tác THADS của tỉnh vẫn còn có những tồn tại, hạn chế sau: (1) Kết quả thi hành án tín dụng, ngân hàng đến nay vẫn còn chưa đạt như mong muốn; (2) Số bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa được thi hành xong vẫn còn; (3) Mặc dù các đơn vị đã đưa ra nhiều giải pháp, nhưng kết quả giải quyết các vụ việc có điều kiện thi hành tồn đọng 1 năm trở lên chưa tương xứng dẫn đến kết quả thi hành xong về việc chưa cao.
Qua phân tích nhanh nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngành THADS tỉnh đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp năm 2024, tập trung vào một số nội dung: Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các văn bản chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và của tỉnh về công tác THADS, đặc biệt là Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội; triển khai thực hiện Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình trọng tâm trong lĩnh vực THADS, theo dõi THAHC năm 2024; Quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về giao chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2024. Tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 29/11/2021 và Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 14/9/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và Ban chỉ đạo THADS cùng cấp, chỉ đạo các đơn vị có liên quan tại địa phương phối hợp tốt với cơ quan THADS trong công tác THADS. Tập trung mọi nguồn lực để tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc có điều kiện thi hành, nhất là các vụ việc có giá trị lớn, các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng; các vụ việc thu hồi tiền, tài sản của Nhà nước bị thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Kiên quyết tổ chức cưỡng chế thi hành đối với những vụ việc có điều kiện thi hành nhưng người phải thi hành án chây ỳ, trốn tránh không tự nguyện thi hành án, nhất là các vụ việc có điều kiện thi hành tồn đọng 1 năm chưa thi hành xong. Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra. Chú trọng thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp trong THADS, theo dõi THAHC.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh cũng đề nghị Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các ngành phối hợp tốt với các cơ quan THADS trong công tác THADS, theo dõi THAHC; đề nghị UBND tỉnh quan tâm hỗ trợ một phần kinh phí hàng năm cho cơ quan THADS và tạo điều kiện về quỹ đất, hỗ trợ kinh phí để xây dựng, cải tạo trụ sở làm việc một số Chi cục trước đây có quy mô nhỏ, hẹp chưa có kho vật chứng.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Sở KH&ĐT, trình bày tóm tắt 5 tờ trình về lĩnh vực đầu tư công.
Trình bày tờ trình phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Sở KH&ĐT, cho biết: Căn cứ Luật Đầu tư công năm 2019, tại Kỳ họp này, UBND tỉnh báo cáo, trình HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án gồm: Dự án cải tạo, xây mới trụ sở các trạm y tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023-2025 (giai đoạn 1) tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn 12 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện Cô Tô) và sửa chữa, cải tạo trụ sở Trung tâm Kiểm nghiệm - Sở Y tế; Dự án Cải tạo, xây mới Trung tâm Y tế TX Đông Triều đáp ứng quy mô 400 giường bệnh; Dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh - cơ sở 2 tại TP Hạ Long, với quy mô 1.000 giường bệnh đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ, hiện đại, ngang tầm cỡ khu vực nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân.
UBND tỉnh báo cáo, kính trình HĐND tỉnh về điều chỉnh chủ trương đầu tư của một dự án đầu tư công. Theo đó, UBND tỉnh báo cáo, trình HĐND tỉnh đề nghị điều chỉnh thời gian thực hiện 5 dự án đầu tư công gồm: Dự án Xây dựng đường gom hai bên đường cao tốc, đoạn từ Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đến nút giao Bình Dân, huyện Vân Đồn; Dự án Đường bao biển nối thành phố Hạ Long với thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Dự án Đường nối từ Đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng (tại Km6+700) đến đường tỉnh 338 - Giai đoạn 1; Dự án Đường ven sông kết nối từ đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng đến thị xã Đông Triều (đoạn từ nút giao Đầm Nhà Mạc đến đường tỉnh 338) - Giai đoạn 1; Dự án Xây dựng hoàn chỉnh nút giao Đầm Nhà Mạc (tại Km20+50 Đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng).
Báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh tại Kỳ họp đề nghị dừng chủ trương đầu tư 3 dự án đầu tư công gồm: Dự án Mua sắm bổ sung trang thiết bị phục vụ tập luyện và thi đấu thể dục thể thao tại Trung tâm Huấn luyện và thi đấu thể dục thể thao tỉnh Quảng Ninh được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 305/NQ-HĐND ngày 09/12/2020; Dự án Đường dẫn và cầu ra cảng tổng hợp Hòn Nét - Con Ong, đoạn từ cảng Con Ong đến Quốc lộ 18 được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 59/NQ-HĐND ngày 09/12/2020; Dự án Nâng cấp, mở rộng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Trung tâm CDC và một số đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Y tế được HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 65/QĐ-HĐND ngày 12/9/2018.
Báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách cấp tỉnh. Theo đó, nguồn vốn điều chỉnh, phân bổ: 3.787,439 tỷ đồng. Cụ thể, điều chỉnh giảm 492 tỷ đồng của 3 dự án đã bố trí trong trung hạn, gồm: Dự án mua sắm bổ sung trang thiết bị phục vụ tập luyện, thi đấu tại Trung tâm Huấn luyện và thi đấu thể dục thể thao tỉnh Quảng Ninh: 52 tỷ đồng; Dự án đầu tư Trường THPT Hoàng Quốc Việt tại phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều: 200 tỷ đồng; Dự án hạ tầng khu hành chính Khu kinh tế Vân Đồn, xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn: 240 tỷ đồng; phân bổ 3.295,439 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách cấp tỉnh còn lại chưa phân bổ 6.033,964 tỷ đồng tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 165/NQ-HĐND ngày 31/10/2023 của HĐND tỉnh. Tờ trình cũng đề nghị phân bổ nguồn vốn điều chỉnh 3.787,439 tỷ đồng gồm: Điều chỉnh tăng vốn chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch và 3 dự án đã có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 38,235 tỷ đồng; bổ sung danh mục và kế hoạch đầu tư công trung hạn cho 1 dự án hoàn thành và 12 dự án khởi công mới với số vốn là 3.749,204 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách tỉnh còn lại chưa phân bổ là 2.738,525 tỷ đồng.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường cũng trình bày báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh về tình hình thực hiện đầu tư công năm 2023 và kế hoạch đầu tư công năm 2024. Theo đó, tổng kế hoạch chi đầu tư công đến ngày 20/11/2023 là 14.581,051 tỷ đồng. Tính đến ngày 5/12/2023, vốn giải ngân là 8.472,2 tỷ đồng, đạt 61,4% kế hoạch vốn HĐND tỉnh giao đầu năm, đạt 58,2% so với kế hoạch vốn sau điều chỉnh (14.567 tỷ đồng), cao hơn so với bình quân cùng kỳ 2022 (55,8%).
Mặc dù kết quả giải ngân chưa đạt so với mục tiêu đề ra, tuy nhiên đây là sự nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị toàn tỉnh, do tổng kế hoạch vốn được giao của Quảng Ninh đứng thứ 5 cả nước và nếu xét về số vốn giải ngân tuyệt đối thì Quảng Ninh là tỉnh đứng thứ 7 cả nước. Ước thực hiện giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2023 là 13.299 tỷ đồng, đạt 91,2% kế hoạch vốn sau điều chỉnh, đạt 96,2% kế hoạch vốn HĐND tỉnh giao đầu năm, đạt trên 95,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Dự kiến nguồn vốn dành cho chi đầu tư năm 2024 là trên 14.280 tỷ đồng gồm ngân sách Trung ương 430,7 tỷ đồng, ngân sách tỉnh 9.906 tỷ đồng, ngân sách huyện 3.943,9 tỷ đồng.
Đồng chí Trần Văn Lâm, Giám đốc Sở Tài chính, trình bày tóm tắt các tờ trình về lĩnh vực tài chính ngân sách
-Tờ trình về dự toán thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán chi ngân sách cấp tỉnh và cơ chế, biện pháp điều hành ngân sách địa phương năm 2024.
Về tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm 2023: Tổng thu NSNN (không gồm GTGC) thực hiện 11 tháng đạt 49.552 tỷ đồng và cả năm ước đạt 55.632 tỷ đồng, bằng 103% dự toán, bằng 104% cùng kỳ. Trong đó, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu thực hiện 11 tháng đạt 15.492 tỷ đồng và cả năm ước đạt 16.000 tỷ đồng, bằng 133% dự toán, bằng 98% cùng kỳ. Thu nội địa thực hiện 11 tháng đạt 34.060 tỷ đồng và cả năm ước đạt 39.632 tỷ đồng, bằng 94% dự toán, bằng 107% cùng kỳ. Thu từ thuế phí ước đạt 34.500 tỷ đồng, bằng 100% dự toán, bằng 107% cùng kỳ. Thu tiền sử dụng đất ước đạt 5.132 tỷ đồng, bằng 68% dự toán, bằng 103% cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 11 tháng đạt 16.778 tỷ đồng và cả năm ước đạt 29.543 tỷ đồng, bằng 100% dự toán. Chi đầu tư phát triển thực hiện 11 tháng đạt 7.751 tỷ đồng và cả năm ước đạt 15.719 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch vốn, chi thường xuyên thực hiện đến 11 tháng đạt 9.027 tỷ đồng và cả năm ước đạt 13.824 tỷ đồng, bằng 100% dự toán.
Về phương án giao dự toán ngân sách năm 2024, phấn đấu tổng thu ngân sách nhà nước năm 2024 dự kiến là 55.600 tỷ đồng, bằng 103% dự toán năm 2023, bằng 100% ước thực hiện năm 2023 và bằng 104% dự toán TW giao (tăng 2.388 tỷ đồng). Trong quá trình điều hành dự toán thu NSNN phấn đấu tăng thu thuế, phí ở mức cao nhất (theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025) để có nguồn lực đầu tư các dự án trọng điểm của tỉnh. Thu nội địa dự toán năm 2024 dự kiến là 42.600 tỷ đồng, bằng 101% dự toán năm 2023, bằng 107% ước thực hiện năm 2023 và bằng 105% dự toán TW giao.
Tổng chi ngân sách địa phương (không bao gồm BSCMT từ NSTW) năm 2024 dự kiến là 32.519 tỷ đồng, bằng 106% dự toán đầu năm 2023, bằng 106% dự toán sau điều chỉnh, bằng 108% dự toán TW giao năm 2024, cụ thể: Chi đầu tư phát triển cho các dự án năm 2024 dự kiến là 13.850 tỷ đồng, bằng 105% dự toán đầu năm 2023, bằng 100% dự toán TW giao năm 2024. Chi thường xuyên năm 2024 dự kiến là 16.836 tỷ đồng, bằng 102% dự toán giao đầu năm 2023, bằng 108% dự toán TW giao năm 2024 (nếu loại trừ số tăng thu, tiết kiệm chi dự kiến để bổ sung vốn đầu tư là 2.680 tỷ đồng thì đạt 89% dự toán TW giao).
Về cơ chế, biện pháp điều hành ngân sách năm 2024, tiếp tục thực hiện định mức dự toán, cơ chế, biện pháp điều hành ngân sách của tỉnh đã quy định; đồng thời, có một số điểm đề xuất mới như sau:
Cấp bù chi khác ngoài định mức phân bổ chi quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể và chi sự nghiệp khác đã quy định tại Nghị quyết số 66/2021/NQ-HĐND và Nghị quyết số 136/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh để bù yếu tố trượt giá qua các năm.
Cấp bù chi khác cho sự nghiệp giáo dục để đạt tỷ lệ (%) giữa tiền lương và chi hoạt động thường xuyên là 80/20 và 79/21 đối với địa phương vùng khó khăn, cao hơn mức tối thiểu theo quy định tại Quyết định số 30/2021/QĐ-TTg ngày 10/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu là nâng cao chất lượng giáo dục và nâng cao thu nhập, đời sống cho giáo viên người lao động.
Tiếp tục thực hiện Điều 6 Nghị quyết số 66/2021/NQ-HĐND của HĐND quy định đối với phí tham quan Vịnh Hạ Long là khoản thu ngân sách thành phố Hạ Long được hưởng, sau khi đã để lại 11% cho Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đến hết năm 2025 (Nghị quyết số 66/2021/NQ-HĐND quy định đây là nguồn thu của thành phố đến hết năm 2023).
Năm 2024 bố trí dự toán cho cấp xã theo quy định “cứng” tại Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 của Chính phủ Quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố; một số mức chi tiếp tục được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết 207/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh cho đến khi Nghị quyết mới được ban hành (trong quý I/2024).
Về kế hoạch tài chính ngân sách 03 năm 2024-2026, phấn đấu tổng thu NSNS 03 năm (2024-2026) là 197.623 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn dự kiến bố trí cho kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn ngân sách cấp tỉnh giai đoạn 2021-2025 là 76.138 tỷ đồng (tăng 13.762 tỷ đồng so với kế hoạch). Tổng kế hoạch chi NSĐP 03 năm dự kiến là 122.854 tỷ đồng. Chi đầu tư phát triển cho dự án được tính toán trên dự báo số thu ngân sách nhà nước 62.850 tỷ đồng, chiểm 51% tổng chi. Tổng chi thường xuyên ổn định trong 03 năm là 50.508 tỷ đồng.
-Tờ trình về phê chuẩn tổng quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn và quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2022.
Theo đó, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 72.053.504 triệu đồng, trong đó: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 54.273.511 triệu đồng; thu tiền vay là 22.874 triệu đồng; thu chuyển nguồn là 15.353.935 triệu đồng; thu kết dư ngân sách là 2.403.184 triệu đồng.
Tổng thu ngân sách địa phương trên địa bàn là 47.626.472 triệu đồng, trong đó: Thu ngân sách địa phương được hưởng là 28.347.742 triệu đồng; thu chuyển nguồn 15.353.935 triệu đồng; thu kết dư ngân sách 2.403.184 triệu đồng.
Tổng chi ngân sách địa phương (bao gồm chi chuyển nguồn, chi nộp ngân sách cấp trên) là 45.286.933 triệu đồng, trong đó: Chi đầu tư phát triển là 15.440.678 triệu đồng; Chi thường xuyên là 11.449.843 triệu đồng; Chi chuyển nguồn là 17.818.594 triệu đồng.
Tổng kết dư ngân sách địa phương là 2.339.539 triệu đồng, trong đó: Cấp tỉnh: 1.412.541 triệu đồng; cấp huyện: 819.312 triệu đồng; cấp xã: 107.686 triệu đồng.
-Tờ trình đề nghị HĐND tỉnh thông qua Quy định hệ số điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024.
- Đối với đất ở:
+Tổng số vị trí đã được quy định hệ số đất ở năm 2023 là: 7.348 vị trí (trong đó: đất ở đô thị là 5.084 vị trí, đất ở nông thôn là 2.264 vị trí).
+ Tổng số vị trí đã được quy định hệ số thực hiện điều chỉnh tăng hệ số năm 2024 là: 2.374/7.348 vị trí (trong đó: đất ở đô thị 1.792/5.084 vị trí; đất ở nông thôn 582/2.264 vị trí).
+ Tổng số vị trí đã được quy định hệ số thực hiện điều chỉnh giảm hệ số là: 0/7.348 vị trí.
+ Tổng số vị trí đề nghị bổ sung hệ số là: 171 vị trí do Bổ sung bảng giá đất
+ Tổng số vị trí đề nghị hủy bỏ hệ số là: 14 vị trí do loại vị trí khỏi Bảng giá đất.
+ Tổng số vị trí có quy định hệ số giá đất ở năm 2024 sau điều chỉnh, bổ sung/hủy bỏ là 7.505 vị trí (trong đó: đất ở đô thị là 5.213 vị trí; đất ở nông thôn là 2.292 vị trí).
Có 11/13 địa phương xây dựng phương án hệ số điều chỉnh tăng giá đất ở năm 2024 so với năm 2023, với hệ số điều chỉnh từ 1,0 đến 4,0 lần (trong đó: đất ở đô thị hệ số điều chỉnh từ 1,0 đến 3,0 lần; đất ở nông thôn hệ số điều chỉnh từ 1,0 đến 4,0 lần). Lý do điều chỉnh tăng hệ số chủ yếu là hoàn thiện đầu tư hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, chỉnh trang đô thị, nông thôn; cải tạo, nâng cấp hạ tầng giao thông tại một số khu vực; trên cơ sở đó khảo sát giá chuyển nhượng bất động sản tại một số vị trí có biến động tăng theo thị trường.
Có 2/13 địa phương không đề xuất tăng hệ số giá đất ở năm 2024 so với năm 2023 do thị trường bất động sản trầm lắng, ít giao dịch phát sinh, khảo sát giá đất không có biến động.
- Đối với đất nông nghiệp; Đất thương mại dịch vụ; Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp không phải đất thương mại dịch vụ và các loại đất khác quy định tại Quyết định số 42/2019/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của UBND tỉnh Quảng Ninh: hệ số điều chỉnh năm 2024 là 1,0 lần.
-Tờ trình về mức chi đối với một số nội dung chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh.
Mức chi đối với một số nội dung chi tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, gồm:
- Mức chi 100.000 đồng/người/buổi (1/2 ngày làm việc) áp dụng đối các nội dung chi sau: Chi tuyên truyền các chính sách, chế độ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và tổ chức vận động các đối tượng liên quan thực hiện quyết định thu hồi đất; chi phát tờ khai, hướng dẫn người bị thiệt hại kê khai; kiểm tra, đối chiếu giữa tờ khai với kết quả kiểm kê, xác định mức độ thiệt hại với từng đối tượng bị thu hồi đất cụ thể; tính toán giá trị thiệt hại về đất đai, nhà, công trình, cây trồng, vật nuôi và tài sản khác; chi lập, thẩm định, chấp thuận, phê duyệt, công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ khâu tính toán các chỉ tiêu, xác định mức bồi thường, hỗ trợ đến khâu phê duyệt phương án, thông báo công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; chi tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định; nhận mốc giới giải phóng mặt bằng tại thực địa, bàn giao mặt bằng sau thu hồi đất; chi phục vụ việc hướng dẫn thực hiện, giải quyết những vướng mắc trong tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
- Mức chi 150.000 đồng/người/buổi áp dụng đối với nội dung chi: Kiểm kê số lượng nhà, công trình, cây trồng, vật nuôi và tài sản khác bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Mức chi đối với một số nội dung chi tổ chức thực hiện cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất: Mức chi 100.000 đồng/người/buổi áp dụng đối các nội dung chi sau: Chi thông báo, tuyên truyền vận động các đối tượng thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm, quyết định cưỡng chế thu hồi đất; chi cho công tác quay phim, chụp ảnh phục vụ cho việc thực hiện cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất (nếu có); chi phí bảo vệ, chống tái lấn chiếm đất sau khi tổ chức thực hiện cưỡng chế thu hồi đất của thửa đất cưỡng chế thu hồi đến thời điểm hoàn thành việc giải phóng mặt bằng (nếu có).
- Mức chi 150.000 đồng/người/buổi áp dụng đối với nội dung chi: Phục vụ công tác tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất.
Đồng chí Bùi Thị Bính, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Nội vụ trình bày tóm tắt các tờ trình về lĩnh vực nội vụ.
* Đối với Tờ trình về việc ban hành chính sách hỗ trợ tiền đi lại với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc thường xuyên tại các địa bàn xã, thị trấn đảo; xã biên giới; xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi thuộc giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 4/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Quảng Ninh không còn địa bàn khó khăn kể từ ngày 1/7/2021. Do đó, CBCCVC làm việc tại các địa bàn này không còn thuộc đối tượng được hưởng chính sách tại Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 8/10/2019 của Chính phủ. Trung ương dừng thực hiện chế độ phụ cấp thu hút tại địa bàn Cô Tô và các đảo thuộc Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bái Tử Long, đã có nhiều CBCCVC xin thôi việc hoặc chuyển công tác. Từ năm 2021 đến nay, tỉnh đã nhận được ý kiến đồng thuận của các Bộ tham gia để xây dựng Nghị quyết hỗ trợ đối với CBCCVC và người lao động.
Căn cứ tình hình thực tiễn và ý kiến kiến nghị của cử tri các huyện Cô Tô, Ba Chẽ, Vân Đồn quan tâm thực hiện các chính sách hỗ trợ CBCCVC tại các địa bàn còn khó khăn của tỉnh, UBND tỉnh đề nghị ban hành chính sách hỗ trợ tiền đi lại, sinh hoạt đối với CBCCVC và người lao động làm việc thường xuyên tại các cơ quan đảng, đoàn thể, chính quyền tại một số địa bàn thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Địa bàn và mức hỗ trợ gồm 11 xã đảo theo Quyết định số 425 của Thủ tướng Chính phủ và các đảo do Ban Quản lý vườn Quốc gia Bái Tử Long quản lý là 5.000.000 đồng/người/tháng. 23 xã và 34 thôn vùng dân tộc thiểu số và miền núi: 3.000.000 đồng/người/tháng.
* Đối với Tờ trình về bãi bỏ Nghị quyết số 94/2017/NQ-HĐND ngày 13/12/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thí điểm áp dụng một số chính sách đối với người làm việc theo chế độ hợp đồng tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh. Ngày 30/12/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 111/2022/NĐ-CP; theo đó các đơn vị được ký kết hợp đồng lao động và trả lương theo một trong hai hình thức là theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật lao động hoặc áp dụng tiền lương theo bảng lương của công chức, viên chức phù hợp với khả năng ngân sách của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đề nghị xem xét bãi bỏ toàn bộ Nghị quyết số 94/2017/NQ-HĐND ngày 13/12/2017 của HĐND tỉnh về việc thí điểm áp dụng một số chính sách đối với người làm việc theo chế độ hợp đồng tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh Quảng Ninh.
* Đối với Tờ trình quy định chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023-2025. Tờ trình, dự thảo Nghị quyết quy định 4 nhóm đối tượng áp dụng: Cán bộ cấp xã không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ dôi dư do sắp xếp ĐVHC cấp xã; Viên chức, cán bộ, công chức cấp xã dôi dư do sắp xếp ĐVHC cấp xã; Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư khi bố trí số lượng, chức danh do sắp xếp ĐVHC cấp xã; Hợp đồng lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính.
5 chính sách hỗ trợ, gồm: Nghỉ hưu trước tuổi; Thôi việc ngay; Nghỉ chờ đủ tuổi nghỉ hưu; Tự nguyện chuyển công tác ra ngoài khu vực nhà nước; Hỗ trợ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Ngoài được hưởng các chính sách tại Điều 5, 6, 7, 8, 9 Nghị định số 29/2023/NĐ-CP còn được tỉnh hỗ trợ mức tương đương với chính sách quy định tại Nghị định số 29 và thống nhất với giai đoạn 2019-2021 theo Nghị quyết số 220/2019/NQ-HĐND.
Kinh phí dự kiến trên 17 tỷ đồng. Thời gian thực hiện từ ngày Nghị quyết có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2026.
* Đối với Tờ trình số 2408/TTr-UBND ngày 31/8/2023 của UBND về Phát triển thanh niên tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, Giám đốc Sở Nội vụ cho rằng, qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Phát triển thanh niên tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2020 đã đạt kết quả quan trọng, tuy nhiên cần ban hành mục tiêu, giải pháp để phù hợp tình hình mới. Theo đó, nội dung tờ trình đề nghị HĐND tỉnh xem xét Nghị quyết Phát triển thanh niên tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030 gồm: 3 điều, với 6 nhóm mục tiêu và 41 chỉ tiêu; trong đó 23/38 chỉ tiêu giữ nguyên như chỉ tiêu của Trung ương; 15/38 chỉ tiêu cao hơn và 3 chỉ tiêu riêng của tỉnh Quảng Ninh; 7 nhóm nhiệm vụ giải pháp: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thanh niên; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đối với thanh niên; tăng cường cung cấp dịch vụ, hoạt động hỗ trợ thanh niên; phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp; tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức thanh niên.
* Đối với Tờ trình số 3231/TTr-UBND ngày 16/11/2023 của UBND tỉnh về các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Giám đốc Sở Nội vụ nêu rõ, căn cứ khoản 2, Điều 85, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 và điểm đ, khoản 2, Mục II, Quyết định số 346/QĐ-TTg ngày 6/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bám sát quy định trách nhiệm, UBND tỉnh Xây dựng, trình HĐND cùng cấp quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở”.
Theo đó, tờ trình đề xuất HĐND thông qua Nghị quyết gồm 5 nhóm biện pháp:(1) Bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho người được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; (2) Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; (3) Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, vai trò nêu gương của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố trong việc thực hiện dân chủ; lấy mức độ thực hiện dân chủ ở cơ sở của chính quyền địa phương cấp xã, cơ quan, đơn vị, tổ chức là một trong những căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ; (4) Hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học - kỹ thuật, trang bị phương tiện kỹ thuật cho việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở phù hợp với tiến trình chuyển đổi số; (5) Kịp thời biểu dương, khen thưởng các gương điển hình, có thành tích trong thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra và xử lý nghiêm cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
* Tờ trình số 3243/TTr-UBND ngày 17/11/2023 của UBND tỉnh về việc quyết định biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; phê duyệt tổng số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; quyết định số lượng cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Quảng Ninh năm 2024 đã đưa ra số lượng cụ thể. Đối với biên chế công chức: Tổng số 2.396 biên chế (giảm 26 chỉ tiêu so với năm 2023). Trong đó, khối sở, ban, ngành là 1.369; khối huyện 1.015; dự phòng là 12.
Số lượng người làm việc, tổng số 22.992 chỉ tiêu người (giảm 978 chỉ tiêu so với năm 2023). Trong đó, khối sở, ban, ngành là 5.271; khối đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND tỉnh là 239; Khối huyện 17.467; Dự phòng 15.
Số lượng cán bộ, công chức cấp xã: Tổng số giao là 3.864 người, giữ nguyên so với năm 2023.
Định biên sử dụng ngân sách nhà nước giao cho các hội có tính chất đặc thù: 81 định biên cho 13 hội có tính chất đặc thù của tỉnh, giữ nguyên so với năm 2023.
Đồng chí Nguyễn Hoài Sơn, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: “Dành kinh phí trên 62 tỷ đồng/năm để hỗ trợ một số đối tượng người có công với cách mạng và thân nhân trên địa bàn tỉnh”
Trình bày tờ trình, dự thảo Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ một số đối tượng người có công với cách mạng và thân nhân trên địa bàn tỉnh, đồng chí Nguyễn Hoài Sơn, Giám đốc Sở LĐ,TB&XH cho biết: Trong thời gian qua, ngoài việc thực hiện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng theo quy định của Trung ương, tỉnh cũng có các chính sách riêng để tri ân đối với người có công với cách mạng như: Hỗ trợ cải thiện nhà ở; tặng quà nhân ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, Tết Nguyên đán.
Ngày 7/12/2018, HĐND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 145/2018/NQ - HĐND quy định về hỗ trợ điều dưỡng phục hồi sức khỏe cho người có công với cách mạng và thân nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Nghị quyết 145).
Tuy nhiên đến nay các căn cứ pháp lý khi ban hành Nghị quyết 145 đã hết hiệu lực thi hành, đồng thời mức hỗ trợ điều dưỡng tại Nghị quyết 145 đã được quy định từ nhiều năm trước, nay cần điều chỉnh nâng lên cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Để chăm lo tốt hơn nữa cho người có công với cách mạng, góp phần nâng cao mức sống của người có công với cách mạng, UBND tỉnh đề xuất HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ một số đối tượng người có công với cách mạng và thân nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (thay thế Nghị quyết số 145).
Nội dung cơ bản của chính sách trong dự thảo Nghị quyết:
*Hỗ trợ chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ trên địa bàn tỉnh khi tham gia điều dưỡng, ngoài ngân sách Trung ương chỉ theo quy định, ngân sách tỉnh hỗ trợ thêm như sau:
- Điều dưỡng phục hồi sức khỏe tập trung là 3.150.000 đồng/người/lần (tăng 400.000 đồng so với Nghị quyết 145; Hỗ trợ tổ chức tham quan các di tích lịch sử, văn hóa ở các địa phương trong nước là 1.350.000 đồng/người/lần (tăng 450.000 đồng/người/lần so với Nghị quyết 145).
-Điều dưỡng phục hồi sức khỏe tại nhà: Hỗ trợ tiền ăn 900.000 đồng/người/lần (tăng 200.000 đồng so với Nghị quyết 145).
*Hỗ trợ điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với một số người có công với cách mạng được hưởng chính sách điều dưỡng hai năm một lần trong năm mà không thực hiện điều dưỡng theo chính sách của Trung ương.
- Điều dưỡng phục hồi sức khỏe tập trung: 7.349.000 đồng/người/lần.
- Điều dưỡng phục hồi sức khỏe tại nhà: 2.750.000 đồng/người/lần.
* Hỗ trợ thêm hằng tháng đối với người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp, phụ cấp hằng tháng theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ngoài mức hỗ trợ từ ngân sách Trung ương. Mức hỗ trợ hằng tháng bằng 0,15 lần mức hiện hưởng.
* Hỗ trợ bảo hiểm y tế đối với thân nhân người có công với cách mạng và người phục vụ đối tượng là con đẻ bị dị dạng, dị tật không tự lực được trong sinh hoạt của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Mức hỗ trợ: Bằng 100% mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước.
* Hỗ trợ nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh đối với người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi hằng tháng cô đơn không nơi nương tựa và con đẻ bị dị dạng, dị tật không tự lực được trong sinh hoạt của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học mà không có vợ (chồng), con.
Mức hỗ trợ: Bằng giá dịch vụ sự nghiệp công về trợ giúp xã hội đối với đối tượng người cao tuổi, người khuyết tật không tự phục vụ được do UBND tỉnh Quảng Ninh quy định trừ đi 0,6 lần mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng (đối với người có công với cách mạng), hoặc trừ đi 1 lần mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng (đối với con đẻ bị dị dạng, dị tật không tự lực được trong sinh hoạt của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học).
Dự kiến tổng kinh phí thực hiện chính sách là trên 62 tỷ đồng/năm (tăng so với Nghị quyết 145 là khoảng 56 tỷ đồng/năm).
Đồng chí Nguyễn Trọng Diện, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Y tế, trình bày tóm tắt Tờ trình về việc đề nghị ban hành Nghị quyết quy định một số chính sách thu hút và hỗ trợ bác sĩ luân phiên thuộc tỉnh Quảng Ninh, đến năm 2025.
Về sự cần thiết ban hành Nghị quyết, Giám đốc Sở Y tế, nhấn mạnh: Theo Thông tư số 03/2023/TT-BYT ngày 17/3/2023 của Bộ Y tế hướng dẫn về vị trí việc làm, định mức số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp y tế công lập, hiện nay các đơn vị y tế tuyến huyện, tuyến xã và đơn vị chuyên ngành còn thiếu khoảng 405 bác sĩ. Với mục tiêu đạt trên 15 bác sĩ/vạn dân đến năm 2025, toàn tỉnh Quảng Ninh thiếu khoảng 300 bác sĩ. Việc thực hiện chính sách thu hút bác sĩ nhằm tăng số lượng bác sĩ đang thiếu hụt tại các cơ sở y tế đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tăng cường y tế chuyên sâu, giảm tỷ lệ chuyển tuyến. Chính sách thu hút có tính lâu dài tạo nguồn nhân lực cơ hữu bền vững cho các đơn vị thụ hưởng chính sách. Thực hiện chính sách luân phiên có thời hạn đối với bác sĩ là giải pháp ngắn hạn, nhằm bổ sung ngay, tạm thời nhân lực bác sĩ làm việc tại các đơn vị y tế thụ hưởng chính sách trong thời gian triển khai thực hiện quy trình, thủ tục thu hút bác sĩ. Hai chính sách này cần phải được thực hiện đồng thời để bổ trợ cho nhau và tạo hiệu quả cao hơn so với thực hiện từng chính sách đơn lẻ. Vì vậy, việc xây dựng, ban hành Nghị quyết “Quy định một số chính sách thu hút và hỗ trợ bác sĩ luân phiên thuộc tỉnh Quảng Ninh, đến năm 2025” là cần thiết.
Về căn cứ ban hành Nghị quyết, Trung ương đã ban hành các văn bản, gồm: Chỉ thị 25-CT/TW ngày 25/10/2023, Ban Chấp hành Trung ương có nội dung: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế cơ sở với số lượng, cơ cấu phù hợp, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ, có chính sách tiền lương, phụ cấp, chế độ đãi ngộ tương xứng. Phấn đấu đến năm 2030, mỗi trạm y tế có ít nhất một bác sĩ cơ hữu”; “Có chính sách đột phá để thu hút nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi làm việc”. Nghị quyết số 99/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội có nêu nội dung: “Nâng cao năng lực nhân viên y tế cơ sở; luân phiên bác sĩ, nhân viên y tế về công tác tại y tế cơ sở, nhất là trạm y tế xã"; Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 Thủ tướng Chính phủ quy định thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, quy định: Ưu tiên thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn người hành nghề tăng cường cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở tuyến cơ sở, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Dự thảo Nghị quyết đề ra 02 chính sách hỗ trợ cho đối tượng bác sĩ, cụ thể:
1. Thu hút tối thiểu 298 bác sĩ về làm việc tại một số đơn vị sự nghiệp y tế công lập thuộc tỉnh và Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh (Tiến sĩ y khoa, bác sĩ chuyên khoa cấp II: 10 người; thạc sĩ y khoa, bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ nội trú: 39 người; bác sĩ: 249 người). Trong đó: Thu hút 288 bác sĩ trở lên theo vị trí việc làm cho 03 đơn vị y tế chuyên ngành đặc thù, 14 đơn vị y tế tuyến huyện, 47 trạm y tế tuyến xã (thuộc Sở Y tế) và Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh (thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội). Thu hút tối thiểu 10 bác sĩ có trình độ sau đại học thuộc một số chuyên ngành chuyên sâu (tỉnh đang cần bổ sung và khó tuyển, khó đào tạo) cho 04 bệnh viện tuyến cuối.
Mức thu hút: Bác sĩ về tuyến xã từ 200.000.000 - 500.000.000 đồng (tùy theo địa bàn); bác sĩ về tuyến huyện và các bệnh viện chuyên ngành đặc thù, Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh từ 250.000.000-700.000.000 đồng (tùy theo địa bàn và trình độ đào tạo); mức cao nhất là thu hút Tiến sĩ y khoa, bác sĩ CK II: 750.000.000 đồng. Đối tượng là nữ hoặc người dân tộc thiểu số được hưởng theo định mức 1,2 lần mức hỗ trợ trên.
Đối tượng thu hút phải có cam kết thời gian làm việc và thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ với đơn vị trong thời gian 07 năm (84 tháng) kể từ ngày có quyết định tuyển dụng, tiếp nhận của cấp có thẩm quyền.
2. Chính sách hỗ trợ bác sĩ luân phiên từ tuyến trên xuống tuyến dưới làm việc:
- Bác sĩ luân phiên từ các đơn vị tuyến tỉnh (Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Bãi Cháy, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí) xuống làm việc tại các trung tâm y tế tuyến huyện (có làm việc tại tuyến xã 01 buổi/tuần) được hưởng mức hỗ trợ hàng tháng: 12 triệu đồng/tháng/người.
- Bác sĩ luân phiên từ các bệnh viện tuyến huyện và trung tâm y tế tuyến huyện xuống làm việc tại các trạm y tế tuyến xã chưa có bác sĩ trên cùng địa bàn được hưởng mức hỗ trợ hàng tháng: 6 triệu đồng/tháng/người.
- Thời gian thực hiện luân phiên: 06 tháng/lượt/bác sĩ.
Nguồn kinh phí thực hiện Nghị quyết từ nguồn Ngân sách nhà nước theo phân cấp hiện hành.
Đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, trình bày các tờ trình về lĩnh vực đất đai và môi trường.
Trình bày tóm tắt các báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh tại kỳ họp, đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT, đề nghị HĐND tỉnh xem xét thông qua: Danh mục 76 công trình, dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội theo quy định tại Khoản 3, Điều 62, Luật Đất đai năm 2013 với tổng diện tích đất thu hồi 551,13ha; điều chỉnh tên, diện tích dự án, diện tích loại đất thu hồi của 17 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất; danh mục 1 dự án, công trình có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng 0,931ha đất trồng lúa theo quy định tại Điều 58, Luật Đất đai năm 2013; điều chỉnh diện tích chuyển mục đích đất trồng lúa của 10 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua; hủy bỏ 44 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua nhu cầu chuyển mục đích sử dụng trồng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ; hủy bỏ 84 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất.
Thông qua quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với 6 dự án, công trình với tổng diện tích rừng đề nghị là 93,59ha, trong đó, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch sản xuất là 85,84ha, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch rừng phòng hộ là 7,75ha.
Thông qua điều chỉnh diện tích quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với 2 dự án, công trình trên địa bàn TX Quảng Yên và huyện Ba Chẽ với tổng diện tích rừng đề nghị là 3,13ha, trong đó, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch sản xuất là 2,78ha, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch rừng phòng hộ là 0,35ha.
Thông qua hủy bỏ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đã được HĐND tỉnh thông qua đối với 14 dự án, công trình trên địa bàn tỉnh với tổng diện tích đề nghị hủy bỏ là 54,94ha rừng trồng, trong đó, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch sản xuất là 41,54ha, diện tích rừng trồng thuộc quy hoạch rừng phòng hộ là 13,4ha.
Trình bày tờ trình của UBND tỉnh, trình HĐND thông qua việc hủy bỏ danh mục công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ và danh mục các dự án thu hồi đất nhưng quá 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất, chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất. Theo đó, hủy bỏ 44 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ; hủy bỏ 84 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất.
Đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT, trình bày báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh xem xét thông qua quy định mức thu, đơn vị tính phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Từ nay đến ngày 31/12/2025, theo đó, mức thu phí thay đổi đối với 6 loại khoáng sản là mức thu trung bình (mức thu tối thiểu cộng với mức thu tối đa chia cho hai) theo quy định tại khung mức thu phí trong Nghị định 27/2023/NĐ-CP gồm: Sỏi, cát vàng, cát trắng, các loại cát, đất sét, đất làm gạch, cao lanh, đất làm ngói. Mức thu phí đối với 9 loại khoáng sản bằng mức thu tối đa theo quy định tại khung mức thu phí trong Nghị định 27/2023/NĐ-CP gồm: Quặng Antimon; đất khai thác san lấp, xây dựng công trình; 4 loại than; các loại đất khác; đá làm vật liệu xây dựng thông thường, đá nung vôi, làm xi măng, làm phụ gia xi măng, làm khoáng chất công nghiệp; nước khoáng thiên nhiên, dolomit, quartzit, các khoáng sản không kim loại khác. Từ ngày 1/1/2026, áp dụng mức thu tối đa theo quy định tại khung mức thu phí trong Nghị định 27/2023/NĐ-CP đối với 15 loại khoáng sản. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/1/2024.
Đồng chí Nguyễn Minh Sơn, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trình bày tóm tắt các tờ trình thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp.
* Đối với Tờ trình quy định nội dung, nhiệm vụ chi thường xuyên thực hiện duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với các tuyến đê cấp IV và cấp V trên địa bàn tỉnh, đề xuất nội dung chi duy tu, bảo dưỡng đê điều: Sửa chữa, cải tạo, gia cố mặt đê; đường gom, đường hành lang chân đê, dốc lên xuống; sửa chữa, trồng cỏ mái đê, cơ đê, chân đê, mái kè; đắp đất, trồng cây chắn sóng; khảo sát, xử lý mối và ẩn hoạ trong thân đê; gia cố thân đê; kiểm tra đánh giá chất lượng cống dưới đê; xử lý hư hỏng nhỏ, nạo vét thượng, hạ lưu cống dưới đê; tu sửa hư hỏng nhỏ của kè; bổ sung, sửa chữa công trình phục vụ quản lý, bảo vệ đê; vật tư dự trữ phòng, chống lụt bão; khảo sát địa hình, địa chất, mặt cắt cố định ngang sông định kỳ, đo đạc sơ hoạ diễn biến lòng dẫn, bãi biển trước đê; bổ sung cơ sở dữ liệu về đê điều.
Nội dung chi xử lý cấp bách sự cố đê điều, gồm xử lý: Sạt trượt mái đê, mái kè; nứt đê; sập tổ mối trên đê; sụt, lún thân đê; bờ sông bị sạt trượt; rò rỉ, thấm, tổ mối và khuyết tật khác trong thân đê; lỗ sủi, mạch sủi, bãi sủi, mạch đùn, bục đất, giếng phụt; xử lý trường hợp nước lũ tràn qua đỉnh đê; các sự cố hư hỏng cống qua đê; hàn khẩu đê; xử lý giếng giảm áp làm việc không bình thường.
Về nhiệm vụ chi, ngân sách tỉnh thực hiện đối với tuyến đê cấp IV; ngân sách cấp huyện chi thực hiện đối với tuyến đê cấp V.
* Đối với Tờ trình về việc ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 337/2021/NQ-HĐND ngày 23/4/2021 của HĐND tỉnh về việc quy định một số chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Sau hơn 2,5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND ngày 24/3/2021 của HĐND tỉnh thí điểm tại Hạ Long, Ba Chẽ, Cẩm Phả đã đạt được những kết quả nhất định (hơn 1.000 hộ gia đình, cá nhân tham gia với diện tích trên 1.600ha; ngân sách hỗ trợ trên 35 tỷ đồng), góp phần nâng cao chất lượng rừng trồng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết còn bộc lộ một số hạn chế như: phạm vi, đối tượng áp dụng còn hẹp; các cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để tạo đột phá phát triển sản xuất lâm nghiệp; chưa phát huy được giá trị các loài cây lâm đặc sản có thế mạnh của địa phương; chưa có cơ chế kiểm soát hiệu quả để phòng ngừa các rủi ro trong thực hiện chính sách. Do đó, việc trình HĐND tỉnh xem xét ban hành nghị quyết, thay thế Nghị quyết số 337/2021/NQ-HĐND là cần thiết.
Đề xuất Nghị quyết mới quy định 2 chính sách hỗ trợ gồm: Hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn; Hỗ trợ sản xuất dưới tán rừng. Về không gian: Chính sách hỗ trợ tại Nghị quyết này mở rộng phạm vi từ 2 địa phương Ba Chẽ, Hạ Long, thực hiện áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh.
Về đối tượng áp dụng, Nghị quyết áp dụng đối với 4 nhóm đối tượng, gồm: Tổ chức (bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang); Nhóm hộ (từ 03 hộ tham gia trở lên); Hộ gia đình; Cá nhân. Đối tượng hỗ trợ được quy định cụ thể tại từng chính sách. Không hỗ trợ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về nguyên tắc hỗ trợ: Đối tượng được hỗ trợ phải xây dựng và thực hiện đúng phương án trồng rừng và sản xuất dưới tán rừng được phê duyệt; địa điểm trồng rừng nằm trong phân vùng rừng gỗ lớn được phê duyệt, diện tích trồng rừng gỗ lớn từ 3ha trở lên; chỉ hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn và sản xuất dưới tán rừng bằng các loài cây thuộc danh mục ban hành kèm theo Nghị quyết (giữ nguyên danh mục 30 loài cây gỗ lớn, cây bản địa được hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn tại Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND; bổ sung danh mục 21 loài cây lâm sản ngoài gỗ, cây dược liệu được hỗ trợ sản xuất dưới tán rừng); đối tượng đã được hỗ trợ phải hoàn trả lại 100% kinh phí nếu không thực hiện đúng phương án trồng rừng gỗ lớn và sản xuất dưới tán rừng được phê duyệt.
Về chính sách hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn: Áp dụng đối với toàn bộ 4 nhóm đối tượng gồm tổ chức, nhóm hộ, hộ gia đình, cá nhân. Riêng đối với tổ chức thì không hỗ trợ trồng rừng bằng loai cây quế. Có 3 hình thức hỗ trợ, trong đó: Hỗ trợ bằng tiền với mức tối đa không quá 20 triệu đồng/ha; đồng thời hỗ trợ chi phí lập phương án trồng rừng gỗ lớn và sản xuất dưới tán rừng với mức 400.000 đồng/ha; hỗ trợ vay vốn ủy thác qua Ngân hàng CSXH với mức tối đa không quá 30 triệu đồng/ha (cao hơn 10 triệu đồng/ha so với Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND) chỉ áp dụng đối với nhóm hộ, hộ gia đình, cá nhân và hộ gia đình là thành viên trong nhóm hộ; hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng thương mại với mức 6%/năm/số dư nợ thực tế.
Về chính sách hỗ trợ sản xuất dưới tán rừng, chỉ áp dụng đối với nhóm hộ, hộ gia đình, cá nhân đã tham gia chính sách trồng rừng gỗ lớn; không hỗ trợ đối với tổ chức; không hỗ trợ đối với đối tượng trồng rừng gỗ lớn bằng loài cây quế.
Dự kiến Nguồn lực về kinh phí để thực hiện chính sách: Ngân sách tỉnh bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách hỗ trợ khoảng 294 tỷ đồng; trong đó hỗ trợ đến khi Nghị quyết hết hiệu lực vào ngày 31/12/2025 khoảng 262 tỷ đồng; ngân sách tiếp tục bố trí kinh phí để thanh toán cho các nội dung hỗ trợ hoàn thành sau khi Nghị quyết hết hiệu lực khoảng 32 tỷ đồng.
Đồng chí Lê Thành Cung, Giám đốc Sở Tư pháp trình bày Tờ trình về quy định mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (thay thế Nghị quyết số 212/2015/NQ-HĐND ngày 15/7/2015 của HĐND tỉnh).
Ngày 18/8/2023, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 56/2023/TT-BTC quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở, theo đó tại khoản 1 Điều 5 Thông tư quy định: “Mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở quy định tại Thông tư này là mức chi tối đa... HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định các mức chi cụ thể để thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn và khả năng cân đối của ngân sách địa phương... ”. Do vậy, việc UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết quy định mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh là cần thiết và đúng thẩm quyền.
UBND tỉnh đề xuất dự thảo Nghị quyết về quy định mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh gồm 4 Điều: Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; Điều 2. Quy định mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở; Điều 3. Nguồn kinh phí thực hiện; Điều 4. Điều khoản thi hành.
Trong đó, dự thảo Nghị quyết quy định mức chi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, gồm 2 nội dung:
Một là, quy định mức chi được viện dẫn đến 5 Nghị quyết của HĐND tỉnh đã ban hành
Hai là, quy định mức chi một số nội dung cụ thể và nội dung đặc thù thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh được giao tại Thông tư số 56/2023/TT-BTC. Nội dung này được quy định bằng với mức tối đa quy định tại Thông tư số 56/2023/TT-BTC. Đối với mức chi tại các số thứ tự 1, 2, 4 và 5 của Phụ lục quy định chia 3 mức: cấp tỉnh bằng mức tối đa theo Thông tư số 56/2023/TT-BTC, cấp huyện bằng 70% của cấp tỉnh, cấp xã bằng 70% của cấp huyện.
Đối với các nội dung khác không quy định tại Nghị quyết này được thực hiện, theo quy định tại Thông tư số 56/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Đồng chí Lê Văn Ánh, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, trình bày Tờ trình về Kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ của HĐND tỉnh năm 2024.
Trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh và các ban, các tổ đại biểu HĐND tỉnh, tại kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét, thông qua Kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ trong năm 2024 của HĐND tỉnh như sau:
* Đối với Kỳ họp thường lệ giữa năm 2024 (diễn ra vào tháng 7 với thời lượng 2 - 3 ngày) sẽ có 15 nội dung. Bao gồm:
1. Dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2024.
2. Dự thảo Nghị quyết thông qua danh mục các công trình, dự án chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất trên địa bàn tỉnh; quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác trên địa bàn tỉnh để thực hiện các dự án, công trình năm 2024.
3. Dự thảo Nghị quyết thông qua việc hủy bỏ một số công trình dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục dự án phải thu hồi đất, danh mục dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng nhưng quá 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất.
4. Dự thảo Nghị quyết quy định tặng thưởng danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú".
5. Dự thảo Nghị quyết điều chỉnh, bổ sung Nghị quyết số 35/2021/NQHĐND ngày 27/8/2021 của HĐND tỉnh về việc quy định về việc quy định chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Trường ĐH Hạ Long, Trường CĐ Việt - Hàn Quảng Ninh và Trường CĐ Y tế Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025 trong năm 2023.
6. Dự thảo Nghị quyết quy định khu vực thuộc nội thành của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh.
7. Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 62/2021/NQ-HĐND về việc phân cấp thẩm quyền quyết định quản lý, sử dụng tài sản công thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Quảng Ninh.
8. Dự thảo Nghị quyết về việc thông qua các Quy chế quản lý kiến trúc đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
9. Dự thảo Nghị quyết quy định nội dung, mức chỉ thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030" trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
10. Dự thảo Nghị quyết về một số chính sách về công tác dân số trong tình hình mới trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
11. Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ học nghề thuộc danh mục nghề khuyến khích đào tạo và hỗ trợ học phí học văn hóa cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2021-2025.
12. Dự thảo Nghị quyết về Chương trình giám sát năm 2025 của HĐND tỉnh.
13. Báo cáo, dự thảo Nghị quyết về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri gửi đến kỳ họp thường lệ cuối năm 2023 và các kiến nghị chưa được giải quyết dứt điểm trong các kỳ họp trước của HĐND tỉnh.
14. Các báo cáo của UBND tỉnh trình theo quy định.
15. Các báo cáo công tác 6 tháng đầu năm 2024 của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự tỉnh theo quy định; Báo cáo kết quả thực hiện chương trình giám sát của HĐND, Thường trực HĐND tỉnh năm 2023 theo quy định.
* Đối với Kỳ họp thường lệ cuối năm 2024 (diễn ra vào tháng 12/2024, với thời lượng khoảng 3 ngày), bao gồm 15 nội dung cụ thể sau:
1. Dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025.
2. Dự thảo Nghị quyết về dự toán thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán chi ngân sách cấp tỉnh và cơ chế, biện pháp điều hành ngân sách địa phương năm 2025.
3. Dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn tổng quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn và quyết toán chi ngân sách địa phương năm 2023.
4. Dự thảo Nghị quyết thông qua danh mục các công trình, dự án chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất trên địa bàn tỉnh; quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác trên địa bàn tỉnh để thực hiện các dự án, công trình năm 2024.
5. Dự thảo Nghị quyết thông qua việc hủy bỏ một số công trình dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục dự án phải thu hồi đất, danh mục dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng nhưng quá 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất.
6. Dự thảo Nghị quyết quy định cụ thể mức hỗ trợ phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
7. Dự thảo Nghị quyết về việc quyết định biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; phê duyệt tổng số lượng người làm việc hưởng lương ngân sách nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp công lập; giao số lượng cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Quảng Ninh năm 2025.
8. Dự thảo Nghị quyết về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
9. Dự thảo Nghị quyết điều chỉnh mức thu phí thẩm định phương án cải tạo phục hồi môi trường.
10. Dự thảo Nghị quyết về Kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ trong năm 2025 của HĐND tỉnh.
11. Báo cáo, dự thảo Nghị quyết thông qua kết quả giám sát của HĐND tỉnh về việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
12. Báo cáo, dự thảo Nghị quyết thông qua kết quả giám sát của Thường trực HĐND tỉnh về việc chấp hành các quy định pháp luật trong công tác quản lý, đăng kiểm phương tiện giao thông thủy nội địa và công tác đảm bảo an toàn giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn tỉnh.
13. Báo cáo, dự thảo Nghị quyết về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị cử tri gửi đến kỳ họp thường lệ giữa năm 2024 và các kiến nghị chưa được giải quyết dứt điểm trong các kỳ họp trước của HĐND tỉnh.
14. Các báo cáo của UBND tỉnh trình theo quy định.
15. Các báo cáo kết quả công tác năm 2024 của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự tỉnh theo quy định.
Ngoài các nội dung trên, theo yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn của địa phương và đề nghị của UBND tỉnh, các ban HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ tỉnh, đại biểu HĐND tỉnh, HĐND tỉnh giao Thường trực HĐND tỉnh xem xét, quyết định bổ sung nội dung vào chương trình các kỳ họp thường lệ và kỳ họp chuyện đề trong năm 2024 để trình HĐND tỉnh quyết định, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đồng chí Bùi Thị Hương, Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách trình bày tóm tắt các báo cáo thẩm tra của Ban
* Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 (lĩnh vực kinh tế - ngân sách), Ban Kinh tế - Ngân sách bày tỏ sự đồng tình với Báo cáo tình hình triển khai nhiệm vụ kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh trong năm 2023; đã chỉ đạo sát sao, quyết liệt và trách nhiệm trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, sự kiện lớn của tỉnh trong năm 2023.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình về những tồn tại hạn chế và nguyên nhân đã được chỉ ra Báo cáo của UBND tỉnh và thấy rằng lĩnh vực đầu tư công và điều hành thu – chi ngân sách vẫn là những tồn tại đáng quan tâm trong năm 2023 như tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp nhất từ trước đến nay, nhiều dự án chậm tiến độ triển khai, chậm phê duyệt dự án, một số nội dung chi liên quan đến mua sắm đặc biệt cho lĩnh vực giáo dục triển khai rất chậm, tỷ lệ nợ thuế vượt chỉ tiêu Tổng cục thuế giao... Ban đề nghị UBND tỉnh cần có giải pháp và gắn trách nhiệm cụ thể trong tổ chức thực hiện ở từng khâu, từng cấp để kịp thời tháo gỡ khó khăn trong điều hành các lĩnh vực nêu trên.
Về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2024, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản nhất trí với nội dung trong dự thảo Nghị quyết, đồng thời quan tâm một số nội dung, gồm: Thúc đẩy các trụ cột kinh tế phát triển đóng góp vào tăng trưởng của tỉnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách và đầu tư công và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trên các lĩnh vực, nhất là về quy hoạch, đất đai.
* Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về dự toán thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán chi ngân sách cấp tỉnh và cơ chế, biện pháp điều hành ngân sách địa phương năm 2024, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản thống nhất với nội dung Tờ trình, dự thảo Nghị quyết do UBND tỉnh trình, bao gồm: Dự toán thu NSNN năm 2024: 55.600 tỷ đồng, trong đó: Thu nội địa: 42.600 tỷ đồng (tiền sử dụng đất: 8.000 tỷ đồng; thuế, phí còn lại: 34.600 tỷ đồng); Thu xuất nhập khẩu: 13.000 tỷ đồng; Dự toán chi ngân sách địa phương: 32.519 tỷ đồng, trong đó: Chi đầu tư phát triển: 14.035 tỷ đồng; Chi thường xuyên: 16.989 tỷ đồng.
Về dự toán thu NSNN, Ban Kinh tế - Ngân sách nhận thấy dự toán giao thu thuế phí năm 2024 là con số khá an toàn và khả thi. Song chưa đảm bảo yêu cầu phấn đấu tăng 5 - 7% so với đánh giá ước thực hiện năm 2023 theo quy định tại Thông tư số 51/2023/TT-BTC, việc xác định loại trừ các khoản tăng đột biến phát sinh một lần trong năm 2023 chưa phù hợp với quy định tại Thông tư số 51/2023/TT- BTC (theo quy định chỉ loại trừ các yếu tố tăng, giảm thu do thay đổi chính sách). Do vậy, cần tính toán để đảm bảo với quy định của Trung ương.
Để đảm bảo cân đối kế hoạch đầu tư công trung hạn, đạt mục tiêu phấn đấu thu nội địa tăng bình quân khoảng 10%/năm cho cả giai đoạn 2021- 2025 theo Chương trình hành động số 01-CTr/TU ngày 09/10/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo rà soát việc giao dự toán giao thu thuế, phí cho các địa phương phải bao quát các khoản thu; giao chỉ tiêu thu nợ đọng thuế. Đối với số thu tiền sử dụng, tiền thuê đất một lần: Rà soát đảm bảo số giao thu sát với khả năng thực hiện của các địa phương, để không xảy ra tình trạng mất cân đối chi đầu tư phát triển như năm 2023. Đồng thời, chỉ đạo UBND tỉnh khẩn trương đẩy nhanh tiến độ tính giá đất của Dự án Hạ Long Xanh, để đảm bảo hoàn thành dự toán giao cho Hạ Long từ Dự án Hạ Long Xanh là 2.167 tỷ đồng. Chỉ đạo, chấn chỉnh các địa phương trong việc xây dựng kế hoạch ghi thu, ghi chi tiền giải phóng mặt bằng nhà đầu tư ứng trước vào tiền sử dụng đất tiền thuê đất phải nộp; khắc phục ngay việc không giao dự toán từ đầu năm. Trong quá trình điều hành, đề nghị UBND tỉnh căn cứ kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm, giao chỉ tiêu phấn đấu thu cho Cục thuế, các địa phương, phấn đấu kết quả thực hiện thu nội địa năm 2024 tăng tối thiểu 10% so với thực hiện năm 2023.
Về chi NSĐP, dự toán chi thường xuyên là 16.989 tỷ đồng, tăng 8% so dự toán Trung ương giao (số tuyệt đối tăng 1.251 tỷ đồng), chiếm 55% tổng chi NSĐP, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh giải trình làm rõ về đề xuất giao dự toán chỉ thường xuyên cao hơn dự toán Trung ương giao. Đối với chi đầu tư phát triển, trong quá trình điều hành ngân sách phấn đấu tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển lên trên 50% trong tổng chi NSĐP đảm bảo theo mục tiêu đề ra trong Chương trình hành động số 01-CTr/TU ngày 09/10/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Thống nhất đối với việc tính khoán quỹ phụ cấp và quy định mức phụ cấp hằng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 của Chính phủ, riêng mức khoán kinh phí hoạt động tạm tính theo Nghị quyết số 207/2019/NQ-HĐND 30/7/2019.
Đề nghị UBND tỉnh khẩn trương chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 207/2019/NQ-HĐND 30/7/2019 trong quý I/2023; chỉ đạo các cơ quan chuyên môn rà soát các khoản kinh phí chi thường xuyên cho các địa phương đảm bảo định mức tại Nghị quyết số 66/2021/NQ- HĐND ngày 09/12/2021, Nghị quyết số 136/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh, các đề án, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo tính tương đồng giữa các địa phương.
Về phương án phân bổ ngân sách cấp tỉnh, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh quan tâm những nội dung: Về chi đầu tư phát triển, đề nghị UBND tỉnh có báo cáo giải trình về những thay đổi phương án phân bổ kế hoạch chi đầu tư phát triển so với số liệu, danh mục báo cáo HĐND tỉnh thông qua dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2024 tại Nghị quyết số 153/NQ- HĐND ngày 09/7/2023; việc thực hiện Dự án trụ sở công an xã giai đoạn 2 được HĐND tỉnh ủy quyền phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 126/NQ- HĐND ngày 13/11/2022; tiến độ vay vốn nước ngoài thực hiện Dự án thoát nước và xử lý nước thải TP Hạ Long; việc đối ứng của các địa phương trong năm 2023, đề nghị UBND tỉnh rà soát điều chỉnh giảm trong kế hoạch năm 2024 đối với các địa phương không đảm bảo đúng tỷ lệ đối ứng năm 2023 theo đúng quy định tại Nghị quyết số 12/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 của HĐND tỉnh.
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo rà soát, khẩn trương đẩy nhanh tiến độ phê duyệt quyết toán đối với các dự án dự án hoàn thành từ năm 2022 trở về, thống nhất nguyên tắc trình HĐND tỉnh bố trí dứt điểm tại Kỳ họp thường lệ giữa năm 2024 sau khi được phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành, trừ các trường hợp bổ sung kế hoạch vốn để thực hiện kiến nghị Thanh tra, giải quyết khiếu kiện của người dân liên quan đến công tác GPMB; rà soát nâng tỷ lệ bố trí vốn cho các dự án hoàn thành trong năm 2024. Đối với các dự án khởi công mới: Chỉ xem xét phân bổ kế hoạch vốn năm 2024 khi đảm bảo các quy định về quy hoạch, đất đai, xử lý tài sản công; được HĐND tỉnh thống nhất bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn và đảm bảo thủ tục phê duyệt đầu tư trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND tỉnh. Riêng đối với các công trình hỗ trợ các đơn vị Trung ương: đề nghị Thủ trưởng các đơn vị có báo cáo cam kết giải ngân năm 2024. Đối với nguồn vốn tỉnh hỗ trợ Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, nguồn vốn hỗ trợ theo tiêu chí chấm điểm: UBND các địa phương phải trình HĐND cùng cấp phân bổ chi tiết tại kỳ họp thường lệ cuối năm 2023; trường hợp còn lại chưa phân bổ đề nghị HĐND tỉnh thống nhất hủy dự toán, thu hồi hoàn trả về ngân sách tỉnh.
Về chi thường xuyên, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị cơ quan trình đảm bảo thành phần hồ sơ liên quan đến việc phân bổ vốn trước ngày diễn ra kỳ họp. Đề nghị UBND tỉnh khẩn trương chỉ đạo rà soát chỉ tiêu giao giường bệnh của các Phòng khám đa khoa khu vực theo Quy hoạch tỉnh được duyệt có báo cáo gửi HĐND tỉnh làm cơ sở giao dự toán năm 2024; trình HĐND tỉnh phân bổ chi tiết ngay từ đầu năm. Kinh phí thực hiện các chính sách do HĐND tỉnh ban hành tại Kỳ họp thường lệ cuối năm, kinh phí bổ sung có mục tiêu ngân sách cấp tỉnh cho ngân sách cấp huyện (369,6 tỷ đồng), đồng thời báo cáo rõ khả năng giải ngân đối với nguồn vốn phát triển sản xuất, tránh tình trạng như năm 2023 không giải ngân được; trong năm 2024 khẩn trương trình HĐND tỉnh phân bổ đối với số còn lại.
Về tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm 2023, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản thống nhất với những nhận định đánh giá của UBND tỉnh.
* Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn tổng quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn và quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2022, Ban Kinh tế - Ngân sách đánh giá việc giao dự toán, lập quyết toán của của UBDN tỉnh, HĐND các địa phương. Về kết quả thực hiện ghi thu, ghi chi kinh phí giải phóng mặt bằng nhà đầu tư ứng trước vào tiền sử dụng đất tiền thuê đất phải nộp trong năm 2022 đạt 710 tỷ đồng/2.046 tỷ đồng, bằng 35% kế hoạch. Tại báo cáo số 5910/BC-STC ngày 10/11/2023 của Sở Tài chính chưa có thuyết minh về nguyên nhân và số cụ thể của các khoản thu tăng, giảm lớn so với dự toán”. Ban đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng có báo cáo bổ sung thuyết minh về nội dung này làm cơ sở để đại biểu HĐND tỉnh xem xét đánh giá kết quả thực hiện dự toán thu nội địa năm 2022.
Về kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiêm túc thực hiện những kiến nghị của kiểm toán, thanh tra; tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm đối với các khoản tạm ứng; thu hồi nợ đọng thuế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính trong điều hành ngân sách trong thời gian tới.
Về phê chuẩn Tổng quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn và quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2022, từ những phân tích nêu trên, số liệu quyết toán trong dự thảo Nghị quyết phù hợp với số liệu tại Tờ trình, báo cáo, đảm bảo các mẫu biểu theo quy định, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị HĐND tỉnh thông qua Nghị quyết phê chuẩn quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn và quyết quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2022 theo đề xuất của UBND tỉnh và theo ý kiến thảo luận của đại biểu HĐND tỉnh.
* Thẩm tra dự thảo nghị quyết về phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công kèm theo tờ trình số 3369/TTr-UBND ngày 24/11/2023, Ban Kinh tế - Ngân sách đánh giá 3 dự án, công trình thuộc lĩnh vực y tế, gồm: Dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh- cơ sở 2 tại phường Hồng Hà và phường Hà Tu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Dự án Cải tạo, xây mới Trung tâm y tế TX Đông Triều; Dự án Cải tạo, xây mới trụ sở các Trạm y tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 - 2025 (giai đoạn 1) và sửa chữa, cải tạo trụ sở Trung tâm kiểm nghiệm - Sở Y tế là cần thiết nhằm cụ thể hóa các chủ trương, định hướng phát triển y tế theo Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, theo hướng phát triển hệ thống y tế hiện đại, đồng bộ, đồng đều, cân đối giữa y tế dự phòng và y tế điều trị. Đồng thời, xây dựng Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm dịch vụ y tế kỹ thuật cao của cả nước để góp phần thúc đẩy phát triển du lịch.
Căn cứ sự tuân thủ quy định pháp luật về hồ sơ dự án, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch có liên quan; phạm vi, quy mô và tổng mức đầu tư, khả năng cân đối nguốn vốn đầu tư công, Ban Kinh tế- Ngân sách đề nghị HĐND tỉnh xem xét thông qua chủ trương đầu tư đối với 3 dự án như tờ trình và dự thảo nghị quyết.
Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh hoàn thành việc đánh giá sắp xếp trụ sở cũ trước trước khi phê duyệt dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh (cơ sở 2) tại phường Hồng Hà và phường Hà Tu, TP Hạ Long theo kết luận tại Thông báo số 965-TB/TU ngày 11/7/2023 về ý kiến của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về quy hoạch và phương án kiến trúc Bệnh viện đa khoa tỉnh, đảm bảo quy mô dự án sau đầu tư không vượt quá quy mô trong Quy hoạch tỉnh được cấp có thẩm quyền phê duyệt; chỉ đạo rà soát tiêu chuẩn, định mức máy móc, thiết bị chuyên dùng, diện tích chuyên dùng, phương án xử lý tài sản công làm cơ sở để phê duyệt dự án; xây dựng phương án quản lý, khái thác và vận hành để phát huy hiệu quả sau đầu tư. Đồng thời, tính toán phạm vi, quy mô và tổng mức đầu tư trong bước phê duyệt dự án đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả; không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, tham nhũng, lãng phí trong quá trình thực hiện.
* Đối với Dự thảo Nghị quyết điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách cấp tỉnh. Qua thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với phương án đề xuất điều chỉnh, bổ sung và phân bổ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 nguồn vốn ngân sách cấp tỉnh theo Tờ trình của UBND tỉnh. Về nguồn kế hoạch đầu tư công trung hạn, Ban đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chuyên môn rà soát tổng thể kế hoạch đầu tư công trung hạn, lũy kế vốn đã bố trí đế xác định chính xác nhu cầu về nguồn lực để đáp ứng kế hoạch đầu tư công trung hạn trong giai đoạn 2024-2025; đồng thời, chủ động xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 trình HĐND tỉnh cho ý kiến trong năm 2024 theo quy định của Luật Đầu tư công năm 2019.
Đối với 3 dự án khởi công mới thuộc nhiệm vụ chi cấp tỉnh đồng thời phê duyệt chủ trương kỳ này, Ban chỉ đồng ý phân bổ số tiền UBND tỉnh trình phê duyệt chủ trương được HĐND tỉnh thông qua. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư của các dự án. Đối với cấp tỉnh trong năm 2023 phê duyệt chủ trương đầu tư 9 dự án (trong đó HĐND tỉnh phê duyệt 6 dự án, ủy quyền UBND tỉnh phê duyệt 3 dự án). Tuy nhiên, đến nay qua theo dõi mới chỉ có 2/9 (chiếm 22%) dự án có quyết định phê duyệt dự án; 4 dự án dự kiến phê duyệt trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND tỉnh cuối năm; còn lại 3 dự án chưa phê duyệt đầu tư. Riêng đối với dự án Trụ sở công an xã giai đoạn 2 được phê duyệt chủ trương đầu tư từ tháng 2/2023: đề nghị báo cáo tiến độ, nguyên nhân lý do chậm phê duyệt dự án.
Để nâng cao chất lượng cũng như đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị cần rà soát kỳ lưỡng các thủ tục đầu tư của Dự án, chỉ xem xét bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn khi các dự án hoàn tất các thủ tục đầu tư, quy hoạch, đất đai, xử lý tài sản công để tránh lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng tới việc giải ngân kế hoạch đầu tư công chung của toàn tỉnh và đảm bảo khả năng cân đối của ngân sách tỉnh trong điều kiện kế hoạch đầu tư công trung hạn phụ thuộc 9.738 tỷ đồng thu tiền sử dụng đất của Dự án Hạ Long Xanh.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết về thông qua danh mục các dự án, công trình thu hồi đất trên địa bàn tỉnh đợt 4 năm 2023 (bổ sung), qua thảo luận, trao đổi, làm rõ tại phiên họp thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách thấy rằng các hồ sơ tài liệu gửi về đảm bảo điều kiện theo quy định để đề xuất HĐND tỉnh thông qua đối với 5 dự án, công trình thu hồi đất theo khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Do vậy, Ban Kinh tế - Ngân sách thống nhất với đề nghị của UBND tỉnh và đề nghị HĐND tỉnh thông qua.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết về chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ để thực hiện các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh (đợt 4) năm 2023, qua thảo luận, trao đối, làm rõ tại phiên họp thẩm tra và đối chiếu các quy định tại Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ cho thấy các dự án, công trình đã đủ thành phần hồ sơ, điều kiện, làm rõ lý do khi trình điều chỉnh. Các dự án đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất và điều chỉnh diện tích dự án và diện tích chuyển mục đích sử dụng đất đảm bảo phù họp với quy hoạch sử dụng đất và nằm trong kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Do vậy, Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình với nội dung Tờ trình và dự thảo Nghị quyết như đề nghị của UBND tỉnh, đề nghị HĐND tỉnh thông qua.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết quy định mức chi đối với một số nội dung chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, qua rà soát hồ sơ và thảo luận qua các phiên thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách thấy rằng dự thảo Nghị quyết đảm bảo sự phù họp với chính sách pháp luật của nhà nước; đồng thời được xây dựng trên cơ sở khảo sát đánh giá tình hình điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và so sánh với các tỉnh lân cận có cùng điều kiện tương đồng.
Ban Kinh tế - Ngân sách đề xuất sửa đổi Dự thảo Nghị quyết các nội dung:
+ Đề nghị bỏ khoản 8 Điều 3 dự thảo Nghị quyết, do nội dung này được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 5 Thông tư 61/2022/TT- BTC.
+ Đề nghị bỏ khoản 9 Điều 3 và khoản 5 Điều 41 dự thảo Nghị quyết, do theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Thông tư số 61/2022/TT-BTC, HĐND tỉnh chỉ quy định mức chi cụ thể.
+ Sửa đổi Điều 3 Dự thảo Nghị quyết, Điều 4 dự thảo Nghị quyết về mức chi của một số nội dung chi.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết quy định mức thu, đơn vị tính phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Qua thảo luận, báo cáo giải trình của Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Kinh tế - Ngân sách thống nhất với nội dung Tờ trình và dự thảo Nghị quyết như đề xuất của UBND tỉnh về danh mục các loại khoáng sản thu phí, tên loại khoáng sản, mức thu, đơn vị tính phí và đề nghị làm tròn đối với mức thu có số lẻ để thuận tiện cho việc tính toán.
* Qua thẩm tra dự thảo Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 337/2021/NQ-HĐND ngày 23/4/2021 của HĐND tỉnh về việc quy định một số chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển Lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND. Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND được ban hành thí điểm tại 3 địa phương đến nay cũng đã có kết quả nhất định trong việc tăng diện tích trồng rừng gỗ lớn, song quá trình triển khai có chính sách được hưởng ứng mạnh mẽ của người dân nhưng phạm vị áp dụng hẹp, có chính sách chưa triển khai được và không đi vào cuộc sống. Sửa đổi lần này nhằm khắc phục những hạn chế của chính sách đã được ban hành tại Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND như phần trên đã nêu và sửa gần như toàn diện Nghị quyết (khoảng 97% nội dung đã được ban hành), do vậy để thuận tiện trong qua trình theo dõi, tổ chức thực hiện, tuyên truyền và áp dụng chính sách của các cơ quan đơn vị và người dân cần ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết quy định nội dung, nhiệm vụ chi thường xuyên thực hiện duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với các tuyến đê cấp IV và cấp V trên địa bàn tỉnh, sau thảo luận tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách thấy rằng cơ sở xây dựng và trình tự, quy trình lập hồ sơ văn bản QPPL của dự thảo Nghị quyết đã đảm bảo theo quy định, phạm vi, đối tượng, nội dung chi nêu trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết của UBND tỉnh cơ bản bám sát vào nội dung hướng dẫn tại Thông tư số 68/2020/TT- BTC ngày 15/7/2020 của Bộ Tài chính, do vậy Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình và đề nghị xem xét một số nội dung sau:
Về phạm vi điều chỉnh, đề nghị điều chỉnh Nghị quyết này quy định nội dung, nhiệm vụ chi thường xuyên từ ngân sách địa phương theo phân cấp thực hiện duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với các tuyến đê do tỉnh Quảng Ninh quản lý. Về đối tượng điều chỉnh, đề nghị điều chỉnh thành các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc sử dụng kinh phí duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với các tuyến đê do tỉnh Quảng Ninh quản lý. Lý do nhằm để phù hợp với quy định tại Điều 5 Thông tư số 68/2020/TT-BTC ngày 15/7/2020 của Bộ Tài chính.
Bổ sung nhiệm vụ chi: Ngân sách tỉnh đảm bảo kinh phí chi thường xuyên để thực hiện duy tu, bảo dưỡng và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với tuyến đê cấp IV và Ngân sách huyện đảm bảo kinh phí chi thường xuyên để thực hiện duy tu, bảo dưỡng và xử lý cấp bách sự cố đê điều đối với tuyến đê cấp V. Lý do là do theo quy định tại Điều 5 Thông tư 68/2020/TT-BTC: “UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh phê duyệt nội dung, nhiệm vụ chi duy tu, bảo dưỡng…”, tuy nhiên theo Tờ trình và dự thảo nghị quyết chưa làm rõ nhiệm vụ chi thuộc cấp nào theo quy định nêu trên.
* Thẩm tra dự thảo Nghị quyết thông qua Quy định hệ số điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024, Ban KTNS nêu rõ: Qua thẩm tra, nghiên cứu hồ sơ gửi kèm, báo cáo thuyết minh của UBND tỉnh, giải trình của các cơ quan và địa phương cho thấy các vị trí đề xuất điều chỉnh tăng hệ số so với năm 2023 đã được đảm bảo các bước khảo sát, thu thập thông tin, đảm bảo nguyên tắc và phương pháp xây dựng hệ số giá đất theo quy trình và trình tự theo quy định tại Thông tư số 36/2014/TT-BTC ngày 30/6/2014 của Bộ Tài Nguyên và Môi trường đối với các vị trí có đề xuất tăng hệ số điều chỉnh so với năm 2023 và được Sở Tư pháp thẩm định tại văn bản 380/BC-STP ngày 16/11/2023. Do vậy, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách thống nhất về hệ số điều chỉnh giá đất đối với đất ở, đất phi nông nghiệp và đất nông nghiệp, bổ sung và hủy bỏ hệ số điều chỉnh giá đất đối với một số vị trí như đề nghị của UBND tỉnh nêu trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết.
Sau khi Nghị quyết được HĐND tỉnh thông qua, đề nghị UBND tỉnh kịp thời ban hành quyết định hệ số điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024 đảm bảo theo quy định kịp thời áp dụng từ ngày 1/1/2024. Chỉ đạo các ngành chức năng quan tâm xây dựng hệ số điều chỉnh giá đất đảm bảo đồng bộ, hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế; rà soát các vị trí có hệ số giá điều chỉnh trên 20% so với bảng giá đất trong nhiều năm để đề xuất điều chỉnh Bảng giá đất theo quy định.
Trình bày báo cáo thẩm tra, đồng chí Vũ Thị Diệu Linh, Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh, cơ bản thống nhất với Báo cáo của UBND tỉnh về tình hình kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành năm 2023, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Năm 2023, tỉnh Quảng Ninh thực hiện nhiệm vụ trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn, thử thách, song kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, tiếp tục quyết tâm, kiên định và quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo triển khai có hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, toàn diện trên các lĩnh vực công tác theo các nghị quyết, kết luận của Trung ương, của Tỉnh ủy, nhất là Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 28/11/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gắn với chủ đề công tác năm 2023 là “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chất lượng đời sống Nhân dân" với sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang nhân dân các dân tộc và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những kết quả quan trọng, nổi bật.
Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng còn những hạn chế như: Việc xây dựng và phê duyệt một số đề án do ngành y tế chủ trì, tham mưu còn chậm so với tiến độ đề ra; công tác mua sắm trang thiết bị dạy học tối thiểu theo chương trình GDPT 2018 còn vướng mắc; thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, gắn với thực hiện Nghị quyết số 06- NQ/TU ngày 17/5/2021 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh còn có khó khăn; việc triển khai xây dựng các xã, phường, thị trấn có Trung tâm Văn hóa, Thể thao đạt chuẩn theo quy định còn hạn chế; tình hình tai nạn lao động và tai nạn thương tích trẻ em vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ cao; tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi có chiều hướng gia tăng chủ yếu là các hành vi liên quan đến cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công cộng và các tội về ma túy…
Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với các chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội trong dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Với chủ đề công tác năm 2024: “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triên văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh", Ban đề nghị UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo các giải pháp thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về xã hội. Chỉ đạo các sở, ngành, địa phương rà soát, đánh giá các Nghị quyết còn hiệu lực, nhất là những Nghị quyết còn hiệu lực nhưng nội dung không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hoặc những nội dung chính sách của Nghị quyết triển khai chưa có kết quả cần quan tâm đánh giá những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Chỉ thị số 38-CT/TU ngày 05/9/2023 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 - 2025, định hướng đến năm 2030 và Kế hoạch tăng cường ứng dụng CNTT và thúc đẩy chuyển đổi số ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn 2023-2025, tầm nhìn 2030 đảm bảo các mục tiêu theo lộ trình đề ra…
Đối với nội dung thẩm tra dự thảo Nghị quyết Quy định một số chính sách thu hút và hỗ trợ bác sĩ luân phiên thuộc tỉnh Quảng Ninh, đến năm 2025, Ban Văn hóa - Xã hội cơ bản đồng tình với nội dung của dự thảo nghị quyết và đề nghị làm rõ một số nội dung cụ thể: Xem xét, sửa đổi phạm vi điều chỉnh của dự thảo nghị quyết đế đảm bảo chặt chẽ và thống nhất với các đối tượng, đơn vị được thụ hưởng chính sách; về chính sách thu hút xem xét các quy định về đối tượng áp dụng, điều kiện thu hút, mức thu hút, cơ chế bồi hoàn kinh phí hỗ trợ; chính sách hỗ trợ bác sĩ luân phiên.
Đối với nội dung thẩm tra dự thảo Nghị quyết Quy định chính sách hỗ trợ một số đối tượng người có công vói cách mạng và thân nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với các nội dung chính sách tại dự thảo nghị quyết. Đồng thời, đề nghị cơ quan trình xem xét, trao đổi làm rõ một số nội dung: Căn cứ ban hành nghị quyết; phạm vi điều chỉnh;…
Trưởng Ban Pháp chế HĐND tỉnh trình bày các báo cáo thẩm tra các tờ trình, dự thảo nghị quyết thuộc lĩnh vực phụ trách và cho ý kiến cụ thể vào nhiều nội dung trong các báo cáo của UBND tỉnh.
Ban Pháp chế được phân công thẩm tra 8 dự thảo Nghị quyết và nhận thấy việc HĐND tỉnh thảo luận, thông qua đối với 8 dự thảo Nghị quyết là cần thiết, đúng thẩm quyền. Hồ sơ trình ban hành các Nghị quyết đã thể hiện đảm bảo các trình tự, thủ tục theo quy định.
Về nội dung các dự thảo Nghị quyết, Ban Pháp chế nhất trí với dự thảo Nghị quyết bãi bỏ Nghị quyết số 94/2017/NQ-HĐND ngày 13/12/2017 của HĐND tỉnh về việc thí điểm áp dụng một số chính sách đối với người làm việc theo chế độ hợp đồng tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh. Ban có một số ý kiến đối với 7 dự thảo nghị quyết sau:
Đối với Dự thảo Nghị quyết về việc ban hành chính sách hỗ trợ tiền đi lại với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc thường xuyên tại các địa bàn xã, thị trấn đảo; xã biên giới; xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi thuộc giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Ban đề nghị phân loại mức hỗ trợ áp dụng đối với những người di chuyển từ đất liền ra đảo công tác hoặc di chuyển giữa các đảo phải đi về tuần hoặc hàng ngày và mức hỗ trợ áp dụng đối với những người sinh sống, công tác tại đảo và không phải di chuyển. Đề nghị xem xét, bổ sung xã Lương Mông (huyện Ba chẽ) cũng thuộc địa bàn được hưởng chính sách hỗ trợ.
Đối với dự thảo Nghị quyết về quy định chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức cấp xã; người hoạt động không chuyên trách cấp xã chịu tác động do sắp xếp đơn vị hành chính giai đoạn 2023 - 2025, Ban đề nghị làm rõ căn cứ đề xuất mức hỗ trợ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và về thời gian thực hiện chính sách.
Đối với dự thảo Nghị quyết về quyết định biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; phê duyệt tổng số lượng người làm việc hưởng lương ngân sách nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp công lập; quyết định số lượng cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Quảng Ninh năm 2024, Ban đề nghị cơ quan trình cần rà soát, điều chỉnh biên chế cho từng cơ quan, địa phương để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đảm bảo tỷ lệ dự phòng tối thiểu 0,5% tổng biên chế được giao để dự phòng tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đối với dự thảo Nghị quyết về việc bổ sung 421 biên chế giáo viên năm học 2023–2024, Ban Pháp chế kiến nghị sửa lại tên của dự thảo Nghị quyết và kiến nghị phân bổ 421 biên chế sự nghiệp giáo dục mầm non và phổ thông công lập cho Sở Giáo dục và Đào tạo và UBND cấp huyện theo đúng các mức phân bổ của Trung ương, không để biên chế giáo viên dự phòng, để giải quyết khó khăn về biên chế giáo viên đối với các ngành học, bậc học của ngành Giáo dục.
* Thẩm tra các báo cáo của UBND tỉnh về các nội dung: Công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; công tác phòng, chống tham nhũng; công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trên cơ sở đánh giá kết quả tích cực, một số hạn chế, khó khăn, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh xem xét chỉ đạo nhiều nội dung cụ thể.
Trong đó, đối với kết quả phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, Ban Pháp chế nhận thấy tỷ lệ điều tra, khám phá án về tội phạm trật tự xã hội đạt theo yêu cầu. Tuy nhiên, một số loại tội phạm tăng so với cùng kỳ như: Giết người, gây rối trật tự công cộng, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả con dấu của cơ quan tổ chức. Đây là tội mà người thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý, phản ánh thực trạng tình hình xã hội.
Bên cạnh đó, một số đối tượng có nguy cơ phạm tội ngoài cộng đồng số lượng cao nhưng công tác giúp đỡ, tạo việc làm cho đối tượng tái hòa nhập cộng đồng hiệu quả thấp (tỷ lệ tái phạm tội là 2,8%). Qua giám sát của Ban cho thấy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, giám sát, giáo dục của người chấp hành án ngoài cộng đồng còn hạn chế. Công tác kiểm sát và kiến nghị của VKS nhân dân 2 cấp cho thấy nhiều địa phương còn nhiều sai sót trong quản lý người chấp hành án treo.
Do đó, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh quan tâm những vấn đề sau: Xem xét toàn diện các nguồn thông tin, số liệu của các cơ quan chức năng, đảm bảo tính khách quan, nhiều chiều. Dự báo tình hình từ xa, từ sớm, xu hướng tội phạm, vi phạm pháp luật phát sinh và dự báo tăng trong thời gian tới để có các giải pháp phòng ngừa hiệu quả hơn. Khẩn trương thực hiện quy trình để trình HĐND tỉnh tại kỳ họp gần nhất Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 96/2013/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ngày 19/7/2013 về một số mục tiêu, giải pháp nâng cao công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong thanh niên, thiếu niên trên địa bàn tỉnh để đáp ứng yêu cầu về phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
Đối với công tác phòng chống tham nhũng (PCTN), thực hành tiết kiệm chống lãng phí (THTK, CLP), Ban Pháp chế cơ bản đồng tình với các đánh giá, nhận định của UBND tỉnh về kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong công tác PCTN, THTK, CLP năm 2023 và một số nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra năm 2024; đồng thời cũng chỉ ra những khó khăn hạn chế. Để nâng cao hiệu quả công tác PCTN, THTK, CLP, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh quan tâm một số giải pháp cụ thể sau: Chú trọng công tác tự kiểm tra, giám sát của cơ quan, đơn vị để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh ngay những vi phạm từ cơ sở; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu trong công tác PCTN, THTK, CLP; quan tâm thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực và các vấn đề nổi cộm, bức xúc trong xã hội; tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Đề án sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2023-2025 cần rà soát, xây dựng phương án sử dụng các tài sản công để tránh lãng phí. Có giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm, điều chuyển vốn các dự án không đảm bảo tiến độ.
Thẩm tra công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư cho thấy, năm 2023, nền nếp công tác tiếp công dân tiếp tục được duy trì, kỷ luật, kỷ cương trong công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở các cấp được tăng cường. Các khiếu kiện phát sinh được giải quyết ngay từ cơ sở và tăng cường gặp gỡ, đối thoại với người dân. Qua đó tình hình khiếu nại tố cáo được giữ ổn định, không hình thành điểm nóng, không phát sinh thêm sự việc khiếu nại, tố cáo phức tạp.
Ban Pháp chế tán thành với các nhiệm vụ, giải pháp năm 2024 của UBND tỉnh và đề nghị quan tâm một số nội dung sau để tăng cường hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và tham gia tố tụng các vụ án hành chính; tiếp tục giữ mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; làm tốt công tác vận động, tuyên tuyền, động viên, hướng dẫn, giải thích người dân để tránh khiếu kiện vượt cấp, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Về công tác xây dựng chính quyền và cải cách hành chính, Ban Pháp chế đánh giá cao kết quả nổi bật trong kỳ qua báo cáo của UBND tỉnh và đề nghị UBND tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về chỉ số PCI, SIPAS, PAPI, cải thiện các chỉ số thành phần hiện giảm thứ hạng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý, sử dụng và tuyển dụng cán bộ, công chức và việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tập trung rà soát, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với thực hiện tinh giản biên chế đảm bảo tốt các chỉ tiêu, mục tiêu giai đoạn 2016-2021.
Đối với công tác tư pháp, qua phân tích một số tồn tại, hạn chế, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh quan tâm một số giải pháp sau: Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương chủ động thực hiện công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; hỗ trợ kinh phí từ nguồn cải cách tư pháp cho các cơ quan tư pháp và thi hành án dân sự để đầu tư hạ tầng, trang thiết bị theo hướng trọng tâm vào một lĩnh vực; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với Hội Công chứng viên và Đoàn Luật sư tỉnh…
Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 và kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết số 300 ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh, do vậy, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành chủ động rà soát, đánh giá việc thực hiện các nghị quyết HĐND tỉnh là các cơ chế, chính sách giai đoạn 2021-2025 để làm rõ những kết quả tích cực đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân làm cơ sở để đề xuất hiệu quả, phù hợp với thực tiễn giai đoạn 2025-2030.
Đối với báo cáo công tác của VKSND, TAND và Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thông qua thẩm tra báo cáo công tác và qua giám sát, khảo sát của Ban cho thấy kết quả hoạt động năm 2023 của 3 cơ quan có nhiều điểm nổi bật tích cực và cũng còn một số hạn chế cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới, qua đó Ban có một số kiến nghị cụ thể với các ngành.
PV
Liên kết website
Ý kiến ()