Tất cả chuyên mục

Với cư dân vùng làng đảo Hà Nam - Yên Hưng, có ba cuộc đổi đời lớn thay đổi hoàn toàn mảnh đất và con người nơi đồng chua nước mặn. Có thể nói không ngoa rằng: Với ba cuộc đổi đời ấy, tầm vóc của làng xã quê tôi không thể tính trị giá bằng bao nhiêu chặng đường hình thành và phát triển gần 600 năm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử, từ khi nơi đây đầu thế kỷ 15 còn là rừng sú vẹt và bãi triều ngập mặn hoang vu.
Một góc “làng đảo” Hà Nam hôm nay.
Cách mạng Tháng Tám mùa thu 1945 là cuộc đổi đời thứ nhất, đã đưa người nông dân quê tôi ''Rũ bùn đứng dậy sáng loà'' (thơ Nguyễn Đình Thi). Ngày ấy, dưới bầu trời tháng bảy, theo lệnh của tướng Nguyễn Bình, đặc phái của chiến khu Đông Triều, các cán bộ Việt Minh đã tổ chức những người nông dân bí mật tụ họp trên sân Đình Cốc, vượt đò, kéo sang phố huyện cùng đi giành chính quyền tỉnh lị Quảng Yên. Mùa thu Tháng Tám đã thổi trận gió của bão táp cách mạng vào các làng quê, vào từng ngõ xóm, giải phóng người nông dân khỏi đêm dài nô lệ. Thế hệ ông bà, cha anh chúng tôi có không khí mới để thở, có con đường rộng để đi, có chữ để biết đọc biết viết. Rồi sau chín năm kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, sau cải cách ruộng đất, dân nghèo có ruộng để cấy cày. Mảnh đất quê hương không còn vết giày đinh tàn bạo của thực dân xéo nát, không còn tiếng moóc chi ê câu xuống cánh đồng đêm đêm... Mẹ tôi kể rằng mẹ là người đàn bà từng không có đất để làm túp lều gianh, phải sống lênh đênh trên con đò dọc như chiếc lá tre khô phiêu dạt trên mặt nước. Một lần, những tên lính lê dương lăm lăm súng đổ bộ lên bờ đê. Chúng bước ngay trên đầu mẹ đang cho chị gái tôi bú dưới một hố đất đào hàm ếch sâu vào chân đê để núp tránh gió mưa. Gót giày đinh rào rạo dẵm xuống, đất rơi lả tả. Mẹ phải áp chặt chị tôi vào ngực để khỏi bật ra tiếng khóc. Khi chúng đi khỏi, mẹ nghe rõ những tiếng thét của người dân vô tội đằng phía cuối làng Cống Mương vọng lại... Chị tôi còn sống đến bây giờ. Chị bảo đó là nhờ bầu vú của mẹ và chiếc hố hàm ếch dưới vạ đê... Quê tôi giải phóng. Miệt đồng xanh biếc luỹ tre xanh cho những đàn cò về đậu. Nhưng nước mặn của biển vẫn bao bọc xung quanh. Nếu nơi khác nước ngọt là chuyện bình thường như cuộc sống vốn có, thì ở đây, nước ngọt lại là giấc mộng bụt hiện ra rồi biến mất khi tiếng gà râm ran gáy sáng...
Với một vùng quê lấy cây lúa làm nguồn sống chính thì nước ngọt là vô cùng quý giá. Nhưng bao đời nay, cư dân phải trông chờ những cơn mưa mới có cảnh ''Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa''. Những năm hạn hán, cả vùng đảo với 9.000 ha đồng ruộng, thấp hơn mực nước biển, mà còn khô cạn, nứt nẻ chân chim. Cây lúa nghẹn đòng. Mùa màng nhiều phen mất trắng. Hoa cỏ sò bung vàng các cánh đồng. Năn lác thừa cơ mọc khắp sông ngòi. Từng đoàn người áo rách kéo nhau đi đào bới củ mài; củ năn về ăn qua ngày đoạn tháng. Kỳ hào chức sắc và dân chúng các làng rước bụt về sân Đình Cốc ''đảo vũ'' cầu trời, cầu Thần nông cứu nghiệp nông tang. Tôi đã từng là thằng bé lon xon bám vạt áo cha đi xem lễ cầu mưa. Ngóng chờ mãi, chẳng thấy bụt đổ mồ hôi, tôi liền bỏ theo bọn trẻ lấy liềm đi rạch trộm bẹ chuối hột rồi vục miệng vào đó húp sùm sụp, nuốt lấy nuốt để những giọt nước vừa ngòn ngọt vừa chan chát một cách thú vị. Còn những người nông dân, họ đành cam chịu ''cấy đứng gặt ngồi'' nhặt từng gié lúa. Từng đoàn người lại lũ lượt sang các làng Hà Bắc - Yên Hưng, Hoành Bồ mót khoai, mua sắn về ăn chống đói. Tôi vẫn không quên được cảnh cả làng, trong đó có đám thanh niên nam nữ chúng tôi, đi chống hạn, thâu đêm gánh nước vét dưới sông ngòi lên ruộng tưới cho từng khóm lúa. Dạo ấy xóm nào cũng đào hồ, đào ao chắt nước trong mạch ngầm và hứng sẵn đợi mưa. Những hòn đá gạo, đá xanh kê bậc mòn vẹt bước chân người múc nước. Các chị tôi đi làm dâu, bà nội tôi thường dạy, về nhà người ta trước tiên phải đảo mắt xem đôi thùng gánh nước để ở đâu, giếng làng ở chỗ nào! Làng Phong Cốc, Yên Đông, có nhiều thuyền buôn lên Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh chở chum vại, be chậu về bán cho dân làm đồ chứa nước. Dựng vợ gả chồng cho con, bố mẹ nào cũng lo chia cho đôi trẻ chiếc chum vại hay chiếc kiệu sành làm vốn ở riêng. Nhà tôi bây giờ vẫn còn giữ được bốn, năm chiếc kiệu lớn, là kỷ vật của mấy đời cụ kỵ ông bà. Đến những năm 1970 của thế kỷ 20, dân quê tôi vẫn phải qua đò sang Hà Bắc gánh nước giếng Rừng, giếng Chanh, xếp hàng đợi chia nước từ sà lan đậu ngoài sông... Tưởng cuộc sống sẽ triền miên mãi thế này trên vùng đảo khát!
Thế nhưng mùa xuân năm 1980, đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng, dòng nước ngọt đầu tiên chảy từ công trình thủy lợi hồ Yên Lập qua hệ thống kênh mương, qua ông xi phông đặt ngầm dưới dòng sông Chanh, đã sang đảo Hà Nam! Ngày hội mừng nước, trong tiếng reo hò của hàng vạn người dân, nhiều người đã khóc, xòe tay đón làn nước mát lành dưới nắng xuân, cứ ngỡ là cơn mưa thần kỳ tuôn ra từ ruột đất. Các cụ già đặt bát nước lên bàn thờ khấn vái tổ tiên. Trai tráng mặc cho nước tràn trề trên mặt, như sợ nước sẽ đột ngột mất đi! Từ đó cảnh gà gáy dậy sớm đặt gầu tranh nong tát nước vắng dần. Cây lúa tươi màu. Con cá bơi lội thoả thích. Sông ngòi, ao hồ đầy ắp nước quanh năm. Ngày tám, tháng ba, bát cơm thơm lừng xóm ngõ. Cả vùng Hà Nam đã thành vựa lúa, vựa cá tôm và rừng dừa của huyện Yên Hưng. 8 công trình nước sạch nông thôn của các xã trị giá hàng chục tỷ đồng đã hoàn thiện, đưa nước sạch đến các khu dân cư. Hình ảnh vặn vòi nước máy như thành thị đã là hiện thực của người nông dân chân lấm tay bùn ở quê tôi...
Cách đây hơn 20 năm, vùng Hà Nam vẫn còn leo lét ngọn đèn dầu hoả. Dân quê chỉ thấy ánh điện của các đội chiếu bóng lưu động, các đoàn văn công về làng lưu diễn. Mãi đến ngày 18-3-1989, ánh điện đầu tiên do đường điện lưới quốc gia chăng qua sông Chanh sang Hà Nam mới thắp lên ở trạm điện Đò Chanh (xã Nam Hoà). Tiếp theo là một loạt các xã. Năm 1998 xã mới Tiền Phong thành lập cũng là xã cuối cùng có điện. ánh điện sáng bừng đêm đêm trong các thôn xóm gần xa. Tiếng đài, tiếng ti vi rộn rã, réo rắt dưới những mái nhà. Cuộc sống thôn quê tự dưng sống động hẳn lên! Dòng điện đổi mới cuộc đời, đổi mới cả cách nghĩ, cách làm ăn, thói quen sinh hoạt thường ngày. Người nông dân kéo điện ra sân, ra vườn thắp sáng, sưởi ấm cho dược mạ giống mới gieo ủ, cho đàn tôm sú trong đầm ăn đêm để lột vỏ, cho luống hoa lay ơn nở kịp dịp Tết. Bọn trẻ con học bài múa hát tận nửa đêm. Đám trai gái rủ nhau đi đám cưới, quán vườn hát karaokê. Đứng chải tóc bên cửa sổ dưới ánh đèn nêông, các em các cháu tôi như đẹp lên gấp mấy lần. Các bà các chị vừa xem ti vi vừa tuốt đai, xảo thóc... Không còn cảnh tối đến ''ba xoa một đập'' đạp chân đi ngủ, không còn cảnh nhà có việc phải chạy khắp nơi thuê đèn măng sông cháy phập phù. Bạn tôi ở phố, ở các nơi về thăm không còn lo thiếu ngụm nước rửa mặt và đọc trang sách phải nhờ ngọn đèn dầu hoả vàng vọt như hạt đỗ. Các xã còn hoàn chỉnh hệ thống đèn chiếu sáng trên đường làng cho dân đi lại và bảo vệ an ninh. Tất cả bừng thức khi công tắc điện bật lên!
Có điện và nước, người dân quê tôi coi đó là cuộc đổi đời thứ hai.
Cầu sông Chanh nối liền 2 vùng đất Hà Nam - Hà Bắc (huyện Yên Hưng).
Và đây: Cây cầu sông Chanh là cuộc đổi đời thứ ba. Khi vùng đất Hà Nam xuất hiện, dòng sông Chanh chia đôi huyện Yên Hưng làm hai khu vực Hà Bắc - Hà Nam. Các làng xã ngày càng phát triển trù mật. Dân số gia tăng. Nông sản, hàng hoá thêm dồi dào. Nhu cầu xã hội giữa hai khu vực và các nơi càng thêm mở rộng. Nhưng mạch máu giao thông cho đến tận năm cuối cùng của thế kỷ 20 vẫn còn ách tắc, vẫn còn nhờ vào những con đò và phà máy, rồi mới tiếp tục tỏa đi. Bến phà Chanh và nút giao thông quan trọng của cả huyện. Biết bao nỗi niềm chờ đợi cần giải toả trong ngày... Lòng dân Hà Nam vẫn còn đó những trận bão lớn từng dìm đắm vùng đảo, tàn phá bao làng mạc và hàng trăm, hàng ngàn người thiệt mạng. Ngày nay, tuy vòng đê đã được nâng cấp, tôn tạo, lát mái, xây bờ chắn sóng. Nhưng họa bão bụt vẫn còn đe dọa xung quanh. Ai dám chắc nơi đây sẽ không còn gặp thiên họa bất ngờ? Nên cây cầu thực sự là một cứu cánh, một sự đổi đời mà chỉ dân 8 xã vùng “lòng chảo'' luôn phải thường trực trước nguy cơ bão lụt mới thấm đẫm sâu sắc ý nghĩa của nó!
Từ một ý tưởng táo bạo, Dự án cầu Sông Chanh đã ra đời! Sau 900 ngày đêm miệt mài lao động sáng tạo, cây cầu dài 1.500m bằng bê tông cốt thép đã hiện lên như một áng cầu vồng. Ngày 24-7-2001, một ngày mùa thu trời trong xanh và mây trắng bay, và một ngày hội lớn chưa từng có của nhân dân quê tôi. Đêm trước đó, cả đảo cùng thức. Sáng sớm, hàng vạn người đã háo hức chờ đợi để bước qua cây cầu thực mà như mơ... Trong đó có những người áo vải nâu sồng 65 năm trước vượt sông đi giành chính quyền cách mạng tỉnh lỵ Quảng Yên. Đôi mắt họ ứa những giọt lệ hạnh phúc vì hai lần qua sông đầy ý nghĩa được lịch sử vùng đất này ghi dấu ấn. Họ đã đi trên mặt nước và đi trên lưng trời để được nhìn thấy trước mặt là phố huyện hôm nay vàng rỡ nắng thu. Dòng sông ngăn cách đôi bờ hàng trăm năm đã được cây cầu nối liền mạch giao thông giữa năm đầu thế kỷ 21! Cuộc sơ tán gần 3 vạn dân chạy tránh cơn bão số 7 năm 2005 càng khiến người dân quê tôi thấm thía ý nghĩa của cây cầu - ''cuộc đổi đời thứ ba'' này!
Từ chỗ không tấc đất cắm dùi, từ chỗ còn sống sót sau nạn đói năm Ất Dậu 1945, nhờ Cách mạng Tháng Tám, nông dân quê tôi đã có đất cấy trồng, có nơi đứng để nhìn lên bầu trời. Nhưng có đất rồi chưa đủ. Còn phải có nước ngọt, có điện để công nghệ phát triển và ứng dụng vào đời sống. Còn phải có giao thông để hội nhập. Mỗi lần nhìn đồng ruộng dọc ngang hàng nghìn mét kênh mương đầy ắp nước tưới cho lúa màu xanh tốt; mỗi lần ngắm đường dây đưa dòng điện làm sống động mọi hoạt động cùng ánh sáng tỏa lung linh; mỗi lần qua cầu sông Chanh lộng gió... Giã từ quá khứ, trong sự nghiệp Đổi mới, người dân quê tôi thêm một lần tự hào, trân trọng những gì của bao mùa thu đi qua! Nhưng đồng thời họ cũng phải lo đương đầu với bao nhiêu khó khăn, thách thức trên đường hội nhập để giữ gìn, chắt lọc và tạo ra những sản phẩm mới về vật chất và tinh thần để có một diện mạo và đời sống nông nghiệp, nông thôn mới, mà vẫn đậm đà bản sắc Việt Nam! Điều này cũng phải tiếp tục phụ thuộc phần lớn trông vào những hoạch định chính sách của các cấp Nhà nước để đổi đời cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn vùng quê bên Bạch Đằng giang cũng như các miền quê khác...
Ý kiến (0)