Tất cả chuyên mục

Quảng Ninh là địa phương có diện tích đất bãi triều ven biển tương đối lớn, nhờ vậy những năm qua nghề khai thác, nuôi trồng thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kể. Công tác quản lý, sử dụng đất bãi triều cũng được tăng cường, tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại cần được khắc phục.
Theo kết quả tổng hợp của Sở Tài nguyên và Môi trường, Quảng Ninh có 23.820ha diện tích đất bãi triều ven sông, ven biển (chiếm 39% diện tích tự nhiên). Đất bãi triều ven sông, ven biển trên địa bàn tỉnh thích hợp với nhiều loại hải sản sinh sống, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như: Sá sùng, tôm cua, ngao, nghêu... Vì vậy, ngành nuôi trồng thuỷ sản trên vùng đất bãi triều có điều kiện và tiềm năng lớn để phát triển. Hiện trên địa bàn tỉnh có 27 tổ chức (chủ yếu là các đơn vị quân đội) được giao đất, cho thuê đất với diện tích 2.574ha và 1.093 hộ gia đình cá nhân với diện tích 3.111ha. Sau khi được giao đất, các đơn vị đã triển khai công tác quy hoạch, xây dựng theo quy hoạch hình thành các khu nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng khu kinh tế quốc phòng, góp phần ổn định đời sống nhân dân khu vực biên giới. Việc giao đất bãi triều cho các hộ gia đình đã tạo điều kiện cho họ yên tâm sản xuất, khai thác nguồn lợi thuỷ sản ngày càng hiệu quả, xoá đói giảm nghèo. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên làm giàu. Ông Phạm Văn Xuyến, thôn Nà Sắn, xã Bản Sen (Vân Đồn) cho biết: “Sau khi hợp phần SuMa Đan Mạch (hợp phần hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nước lợ) hỗ trợ làm quy hoạch và cho thí điểm mô hình nuôi tu hài tại xã từ năm 2005, tôi đã mạnh dạn tham gia, được tập huấn phương pháp nuôi tu hài để về áp dụng cho gia đình mình. Sau quá trình nuôi đến nay, gia đình tôi thu lãi từ nuôi tu hài vài trăm triệu đồng mỗi năm”.
![]() |
Vùng bãi triều khai thác sá sùng tại xã Quan Lạn (Vân Đồn). |
Có thể thấy rằng nguồn lợi kinh tế mang lại từ vùng đất bãi triều trên địa bàn tỉnh tương đối lớn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, trong công tác quản lý, sử dụng đất bãi triều ven sông, ven biển vẫn còn nhiều tồn tại. Đó là việc theo dõi biến động loại đất này chưa đạt yêu cầu đề ra; khi giao đất cho các đơn vị quân đội quy hoạch xây dựng khu nuôi trồng thuỷ sản sau đó giao lại cho các hộ di dân xây dựng kinh tế mới và giao lại cho địa phương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) đã không làm thủ tục chỉnh lý lại quyết định giao đất, dẫn đến việc quản lý đất trên giấy tờ và thực tế có sự khác biệt, khó theo dõi. Đơn cử như Đoàn kinh tế Quốc phòng 327 được giao 543ha đất bãi triều và 262ha đất ngập mặn. Đoàn kinh tế đã xây dựng thành các ao nuôi thuỷ sản quy mô từ 2ha đến 30ha để nuôi quảng canh và bán thâm canh. Sau đó Đoàn tiếp nhận và giao cho 357 hộ dân trong và ngoài tỉnh đến xây dựng kinh tế mới. UBND TX Móng Cái (nay là TP Móng Cái) đã cấp giấy CNQSDĐ cho các hộ trên trong khi chưa có quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh đã giao cho Đoàn kinh tế Quốc phòng 327 và chưa làm thủ tục chỉnh lý lại diện tích giao đất. Bên cạnh đó, việc cắm mốc ngoài thực địa, đất sử dụng qua thời gian dài đã có nhiều biến động dẫn đến tình trạng mất mốc (do thuỷ triều lên xuống). Vì vậy, việc quản lý đất đai trên thực tế có nhiều khó khăn nên thường nảy sinh tranh chấp. Hay như có thời gian trước đây việc khai thác không theo quy hoạch, khai thác theo kiểu tận diệt gây nguy cơ cạn kiệt nguồn hải sản quý giá, sá sùng ở xã Quan Lạn cũng là một điển hình trong việc buông lỏng công tác quản lý.
Nhằm chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai và nâng cao hiệu quả sử dụng đất (trong đó có việc giao đất, cho thuê đất, sử dụng đất bãi triều ven sông, ven biển) Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành kiểm tra việc quản lý sử dụng đất của các tổ chức và hộ gia đình. Thông qua đó, hướng dẫn các địa phương về công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; rà soát lại hồ sơ cho thuê bãi triều để chỉnh lý, khắc phục tồn tại. Đặc biệt mới đây Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 09/2013/TT-BTNMT quy định về quản lý, sử dụng đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Theo thông tư, UBND cấp tỉnh quyết định cho thuê đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển chưa sử dụng đối với tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư với thời hạn không quá 50 năm; UBND cấp huyện quyết định cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân với thời hạn không quá 20 năm để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối và không quá 50 năm để trồng cây lâu năm, trồng rừng sản xuất; khi hết thời hạn thuê đất, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất. Đây sẽ là căn cứ để các địa phương quản lý tốt hơn vùng đất bãi triều ven sông, ven biển hiện nay.
Hiểu Trân
Ý kiến ()