Tất cả chuyên mục

Lợi dụng con nước thuỷ triều lên xuống, từ bao đời nay, ngư dân đảo Hà Nam (TX Quảng Yên) cắm cọc giăng lưới chắn đáy để bắt con tôm, cá. Nghề chắn đáy được ví như “sống ở đáy sông” bởi nỗi vất vả, cơ cực. Thế nhưng, ven sông Bạch Đằng, vượt qua sóng to, gió lớn, ngày đêm họ vẫn cần mẫn mưu sinh, bám trụ lấy nghề...
![]() |
Kéo lưới đáy là khâu nặng nhọc, vất vả nhất nhưng thành quả chỉ là mấy con tôm, cá nhỏ. |
Nhọc nhằn theo con nước
Sông Bạch Đằng chảy quanh 7 xã thuộc khu vực đảo Hà Nam, với nhiều bãi bồi được phù sa bồi đắp, nổi tiếng với các loài thuỷ, hải sản như tôm, cua, hà sú… Nghề sông nước từ bao đời nay đã gắn bó với những ngư dân đảo. Nhưng khi nguồn tài nguyên thuỷ sản ngày một cạn kiệt, không ít ngư dân phải rời bỏ sông nước để mưu sinh bằng công việc khác. Nghề chắn đáy cũng vậy, đến nay chỉ còn khoảng hơn 30 hộ ở đảo Hà Nam còn bám trụ được.
Chúng tôi có mặt tại xóm 4, thôn Quỳnh Biểu (xã Liên Hoà) vào sáng tinh mơ. Dọc chân con đê được bê tông hoá là những nóc nhà nằm thọt lỏm. Mọi người thường gọi nơi đây là “xóm chắn đáy” vì còn hơn 10 hộ duy trì nghề này. Bên kia sông, những hàng cọc bạch đàn được cắm dựng đứng trên mặt nước, đó chính là các “khẩu đáy” (cứ 2 cọc dùng để buộc 2 đầu lưới chắn thành 1 khẩu đáy) của những hộ theo nghề chắn đáy.
Theo kinh nghiệm những người làm đáy, để đánh bắt tôm, cá phải dựa vào nguyên lý lọc nước. Cá được lùa vào lưới dưới tác dụng của dòng chảy và bị giữ lại ở đụt lưới, vì vậy người làm đáy phải tính được nguyên lý thuỷ triều nước lên, xuống. Một tháng, người làm đáy có 15-16 buổi thả được lưới (chủ yếu thả ngày nước lên), những ngày còn lại họ lên bờ làm công việc khác để mưu sinh.
Ngư dân Nguyễn Văn Hải (xóm 4, thôn Quỳnh Biểu), gia đình có truyền thống làm đáy 3 đời nay, hiện có 3 “khẩu đáy” cho biết: “Ngày nào vợ chồng tôi cũng phải thức khuya dạy sớm để thả lưới, kéo đáy. Nghề này vất vả, cơ cực lắm. Lúc trời yên biển lặng thì không sao, trời đổ giông bão, gió lớn thì rất nguy hiểm, thuyền, cọc rung bần bật, việc thu đáy rất khó khăn. Khổ nhất là vào mùa đông giá rét, tay chân cứng đơ lại, người lúc nào cũng ướt sũng vì sương giá…”.
Theo các ngư dân làm đáy, địa điểm để cắm cọc phải được lựa chọn kỹ, thường là những chỗ nước nông hoặc không quá sâu, nước chảy không quá xiết, nếu không sẽ làm hỏng lưới đáy. Cọc đáy được cắm sâu xuống sông, khoảng 6-7 mét và được chằng chắc chắn bởi các dây thừng.
Công việc của người làm đáy thường bắt đầu từ chập tối cho tới sáng hôm sau. Để bắt được tôm, cá không đơn giản chút nào. Khi nước bắt đầu lên phải chuẩn bị lưới thật kỹ, nước xuống thì bắt đầu thả lưới rồi nằm canh cho tới lúc nước đứng mới kéo lên. Mỗi lần kéo lưới, họ phải dùng hết sức của cả tay lẫn chân. Mỗi mẻ lưới kéo nặng hơn 1 tạ. Nhiều hôm, lưới mắc chướng ngại vật nặng quá phải gọi thêm người mới đủ sức kéo. “Nếu sơ sẩy không cẩn thận bị lưới quấn vào chân là bị kéo ngã xuống sông ngay. Vất vả là thế, nhưng nghề này thu nhập bấp bênh lắm” - Anh Hải chia sẻ.
Bèo bọt phận đáy sông
Mất hơn 20 phút lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ, chúng tôi có mặt tại “khẩu đáy” của ngư dân Nguyễn Văn Thông. Anh bảo, vợ chồng anh đã theo nghề này hơn 20 năm nay. Quanh năm làm lụng vất vả, nhưng gia đình hiện vẫn sống trong căn nhà tạm lụp xụp dưới chân đê. Nhiều năm theo nghề nên gia đình anh cũng quen với cảnh bữa được, bữa mất. Nghề làm đáy, mỗi ngày vợ chồng anh kiếm được khoảng 200 ngàn đồng, chi tiêu chắt bóp dành để nuôi 2 con ăn học. Kéo một mẻ lưới, anh Thông nói: “Trước kia, nghề này thu nhập khá ổn định, một khẩu đáy có thể nuôi được 3-4 miệng ăn. Giờ may lắm thì kiếm được 200-300 ngàn đồng một ngày, nhiều hôm trắng tay là chuyện bình thường. Vợ tôi phải chạy chợ, cấy thêm vài sào lúa mới có thể lo được cho con ăn học”.
Trước tình trạng các phương tiện đánh bắt ngày càng nhiều trong khi bãi bồi lại ít dần đi, nạn đánh bắt mang tính huỷ diệt bằng kích điện đã dẫn đến nguồn lợi thuỷ sản cạn kiệt nhanh. Đặc biệt gần đây còn có tình trạng đánh bắt bằng phương tiện “lồng bát quái Trung Quốc” đang đẩy nghề chắn đáy bên vực mai một dần. Một số hộ làm đáy giờ chỉ duy trì cầm chừng, kiểu kiếm cơm cho qua ngày.
Mùa chắn đáy cao điểm thường bắt đầu từ tháng 4 đến hết tháng 9 âm lịch. Những tháng còn lại dân làm đáy chỉ chắn được tôm, cá bé, nên nhiều hộ phải tạm gác đáy lên bờ kiếm việc khác làm. Để “phục vụ” cho 1 “khẩu đáy” đầu tư khá tốn kém, khoảng hơn 50 triệu đồng, gồm: Thuyền, cọc cắm đáy, lưới, dây chằng. Nếu “đen đủi”, bị tàu thuyền qua lại không biết luồng lạch xé rách mất lưới đáy là trắng vốn…
Cô Trần Thị Bồng (xóm 4, thôn Quỳnh Biểu) trước đây làm nghề chắn đọn, kể từ khi chuyển sang nghề làm đáy thì đúng là “hoạ vô đơn chí”. Năm trước, “khẩu đáy” của gia đình cô bị tàu mất lái húc vào làm hỏng cọc và lưới. Chủ tàu bồi thường có hơn 2 triệu đồng, gia đình cô phải bỏ thêm gần chục triệu nữa để thuê thợ sửa lại đáy. “Nghề chắn đáy thu nhập không ổn định, nhưng rủi ro lại khá cao. Năm 2012, một cơn mưa giông, gió lớn sóng to làm thuyền đáy nhà tôi bị đắm. Lúc đó trên thuyền chỉ có 2 bố con, may cả 2 biết bơi nên thoát nạn. Còn thuyền chìm phải thuê thợ lặn vớt lên. Bao nhiêu đồ đạc, lưới… đều bị đổ xuống sông hết” - Cô Bồng kể lại.
Hơn 7 giờ, mặt trời vẫn còn nấp sau những rặng lậu, sú vẹt, chúng tôi quay vào bờ trên chiếc thuyền máy nhỏ của anh Nguyễn Văn Thông. Thuyền rẽ sóng lướt nhẹ, tiếng máy nổ bình bịch xen lẫn giọng nói của anh: “Hôm nay, biển lặng may kéo được con cá đối nhòng to, nhanh về để vợ còn kịp chạy chợ buổi sáng…”.
Phạm Tăng (CTV)
Ý kiến ()