Tất cả chuyên mục

Cuối năm 1967, từ Vùng mỏ, có một lực lượng bộ đội chủ lực gồm thợ mỏ và con em các dân tộc tỉnh Quảng Ninh được bổ sung cho chiến trường để chuẩn bị tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968. Đó chính là Binh đoàn Than, một cái tên làm nên nhiều huyền thoại.
Nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng ký ức về chiến trường miền Nam những ngày xuân Mậu Thân 1968 với các cựu chiến binh (CCB) Binh đoàn Than vẫn vẹn nguyên như mới hôm nào.
![]() |
Chiến sĩ Binh đoàn Than xuất quân. Ảnh: Quang Sơn |
KHÍ THẾ VÙNG MỎ
CCB Nguyễn Hải Hiệp, Trưởng Ban Liên lạc Binh đoàn Than, cho biết: Giữa giai đoạn đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để chuẩn bị lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 và những năm sau này, Trung ương đã cho phép tỉnh Quảng Ninh tổ chức một đợt tuyển quân lớn trong ngành Than điện. Cuộc tuyển quân diễn ra hết sức khẩn trương. Chỉ trong vòng 4 ngày từ 27 đến 30/7/1967, Quảng Ninh và ngành Than đã huy động đủ quân cho 3 tiểu đoàn với khoảng 2.000 người. Quân số chủ yếu là cán bộ, công nhân ngành Than. Số còn lại là con em các dân tộc tỉnh Quảng Ninh.
CCB Bùi Duy Thinh, nguyên Trưởng Ban Liên lạc Binh đoàn Than, nhớ lại: Vào khoảng hơn 4 giờ chiều ngày 30/7/1967, chiến sĩ Binh đoàn Than mặc quần áo thợ mỏ ngồi suốt từ bến phà Bãi Cháy về đến tận chỗ Công ty Xổ số Quảng Ninh bây giờ. Lúc đó, anh em chưa được phát quần áo quân phục, và cũng không hề có sân khấu để tổ chức một cuộc mít tinh hoành tráng, do lúc đó máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt. Mỗi người được tặng một chiếc khăn mùi soa và một chiếc bút máy.
"Sau đó, chúng tôi qua phà sang bên Bãi Cháy, lên xe về Đông Triều, rồi được biên chế thành từng đại đội rồi đi bộ sang Hòa Bình để huấn luyện. Ngày 15/12/1967, tại Hòa Bình, chúng tôi được lãnh đạo tỉnh, Công ty Than, Tỉnh đội, công đoàn đến động viên trước khi lên đường. Thực ra, lúc đó cái tên Binh đoàn Than mới chính thức được đặt tên” - Ông Thinh kể.
Như vậy, danh hiệu “Binh đoàn Than” không phải là một phiên hiệu trong quân đội nhưng đã đi vào lịch sử của giai cấp công nhân mỏ và lịch sử cách mạng tỉnh Quảng Ninh như một trang sử chói ngời mà không phải nơi nào cũng có được. Danh hiệu Binh đoàn Than đã như một huyền thoại trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước… Với ông Thinh và nhiều CCB khác, đó là kỷ niệm không bao giờ quên vì nó đã nhắc nhở ông và các đồng đội phát huy truyền thống thợ mỏ kiên cường. Có lẽ điều đó cũng làm nên khí thế của Binh đoàn Than trên đường hành quân chuẩn bị cho Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Lãnh đạo tỉnh, ngành Than và cựu chiến binh Binh đoàn Than dự lễ gắn bia ghi dấu sự kiện Binh đoàn Than tập kết ở bến phà trước giờ lên đường vào Nam chiến đấu. |
THỢ MỎ Ở CHIẾN TRƯỜNG
Sau 45 ngày, đêm hành quân gian nan, vất vả, chiến sĩ Binh đoàn Than đã tập kết đúng nơi quy định ở chiến trường B5, kịp tham gia chiến dịch Mậu Thân năm 1968. CCB Phạm Hồng Thái, chiến sĩ đặc công của Binh đoàn Than, hiện ở phường Bãi Cháy, TP Hạ Long, kể: Đơn vị của tôi có một chiến sĩ rất đặc biệt là Nguyễn Xuân Việt - công nhân mỏ Than Hà Lầm (lúc đó các mỏ thuộc Công ty Than Hòn Gai, Bộ Điện - Than - PV). Việt tình nguyện gia nhập bộ đội, sau khóa huấn luyện, đạt loại xuất sắc trong tất cả các khoa mục, được bầu là Chiến sĩ thi đua cấp trung đoàn. Trong suốt 4 tháng hành quân liên tục vào mặt trận, Nguyễn Xuân Việt luôn hỗ trợ anh em đồng đội ốm yếu bằng cách mang giùm quân, tư trang cho họ. Có khi anh đeo trên người đến 60kg quân trang. Có lần, Việt bị sốt cao anh em đề nghị nằm cáng, nhưng đồng chí không chịu, kiên quyết đi bộ trong 2 ngày cho đến khi bị ngất đi.
Chiến sĩ Nguyễn Xuân Việt tham gia chiến đấu gần 30 trận, chỉ huy ở vị trí quan trọng, luôn thể hiện ý chí tiến công không biết mệt mỏi. Ba lần bị thương, đồng chí đều xin ở lại đơn vị để điều trị, sau đó lại tham gia chiến đấu. Năm 1971, chiến sĩ Nguyễn Xuân Việt đã anh dũng hy sinh. Sau này, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
"Trận đánh đầu tiên mà Binh đoàn Than năm ấy tham gia là đánh sân bay Tà Cơn ở Quảng Trị năm 1968 trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Tôi nhớ, tháng 3/1968, trước chiến dịch thì tôi được kết nạp Đảng. Đánh xong trận đầu tiên này tôi được phong danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ” - CCB Bùi Duy Thinh kể. Ông cho biết thêm: Chiến sĩ Binh đoàn Than đánh trận đầu tiên đã giành chiến thắng. Riêng chiến sĩ Phạm Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Cửa Ông) đã bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe cơ giới của địch. Trong chiến dịch này, chiến sĩ Binh đoàn Than đã đánh chiếm điểm cao 689, 845, 833 và cắt đường số 9, tạo điều kiện cho các đơn vị khác tiến lên làm chủ nhiều vị trí quan trọng. Đợt đó, Binh đoàn Than có khoảng 300 đồng chí anh dũng hy sinh.
Còn CCB Chu Văn Đích, người cũng tham gia ngay trận đánh mở màn của chiến dịch Mậu Thân - 1968 tại Làng Vây, sân bay Tà Cơn, Quảng Trị, thì bảo, đến tận bây giờ ông cũng không thể nhớ nổi mình đã trải qua bao nhiêu trận đánh lớn, nhỏ. Trong chiến tranh giữa làn ranh giới sinh tử, mới hiểu hết tình đồng đội. Anh em không chỉ sẻ chia miếng cơm, manh áo, mà còn nhường nhau cả sự sống. Ông kể, có lần buổi sáng mùng một Tết, ông sang thăm đồng đội đồng hương của mình là Phạm Hùng Phong và chúc Tết thì buổi chiều nhận được tin đồng đội vừa hy sinh.
Lần theo thông tin từ câu chuyện của ông Đích, tôi tìm đến nhà ông Phạm Hùng Ứng, em trai liệt sĩ Phạm Hùng Phong, hiện ở phường Hồng Gai, TP Hạ Long. “Gia đình tôi chỉ còn giữ được 3 lá thư của anh gửi về, trong đó, lá thư cuối cùng đề ngày 19/2/1968, viết từ Quảng Trị” - ông Ứng xúc động đưa cho tôi xem 3 bức thư của anh mình còn lưu giữ đến giờ. Sợ thời gian làm thư hoen ố, ông Ứng đem thư đi ép plastic cẩn thận. Ông bảo, kỷ vật của anh để lại chỉ vẹn vẻn có mấy bức thư và một tấm di ảnh. Đối với gia đình ông, những kỷ vật này như báu vật bởi vì nó gợi nhớ về người anh cả đáng kính, hết mực yêu thương các em.
CCB Nguyễn Bá Sơn, hiện ở phường Hồng Hà, TP Hạ Long, cũng kể cho tôi nghe một câu chuyện khác về cái tình của chiến sĩ Binh đoàn Than: "Vào một buổi chiều đầu năm 1968, không biết đồng đội Nguyễn Văn Mạc đã kiếm đâu ra gần một cân gạo, chú nấu cơm và để phần cho tôi một bát B52 (chúng tôi gọi là “bát tô”). Tay bưng bát cơm mà lòng tôi cảm động vô cùng, hai hàng lệ chảy theo gò má nghẹn ngào. Trong lòng thầm cảm ơn anh em lắm lắm. Trong khó khăn, bát cơm, hạt muối đều san sẻ cho nhau phải nói là quý hơn vàng. Những cử chỉ đó khắc sâu mãi mãi trong tâm khảm tôi. Đã qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, tôi hiểu được giá trị của cuộc sống, hiểu được thế nào là tình đồng đội”.
Tổng kết chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, chiến sĩ Binh đoàn Than đã góp sức cùng toàn quân và dân miền Nam tiêu diệt 20 vạn tên địch, trong đó có 7 vạn tên Mỹ, phá huỷ 3.400 máy bay, 500 xe quân sự, 4.000 khẩu pháo các loại, giải phóng cho 16 vạn dân, mở rộng vùng căn cứ cách mạng.
CCB Bùi Duy Thinh cùng vợ xem lại những kỷ vật chiến tranh. |
Sau Tổng tiến công Mậu Thân 1968, chiến sĩ Binh đoàn Than được chia ra bổ sung cho các đơn vị trong chiến trường nên bắt đầu phân tán theo từng trung đội, tiểu đội để về đơn vị mới.
CCB Bùi Duy Thinh đưa cho tôi xem cuốn nhật ký ố màu thời gian của mình. Tôi lật qua vài trang thấy có đoạn ghi: “Hôm nay (15/2/1968), Binh đoàn Than không còn ngồi trên mảnh đất Khe Sanh - Đường số 9. Đại đội trưởng chia mỗi anh em một điếu thuốc lào rồi bắt tay từ biệt mỗi người về một đơn vị. Riêng tôi cùng 49 đồng chí nữa được chọn về Đại đội 78 pháo binh”.
Ông Thinh kể tiếp: Sau khi biên chế lại, những người lính của Binh đoàn đã thực sự trở thành nòng cốt trong các đơn vị chiến đấu trên khắp các chiến trường miền Nam; tham gia nhiều trận đánh lớn ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Những thợ mỏ như: Nguyễn Đức Bình (công nhân Mỏ Đèo Nai), Lại Ngọc Nhiếp (công nhân Mỏ Thống Nhất), Đỗ Văn Đồng (công nhân Tuyển Than Cửa Ông)..., đã trở thành dũng sĩ diệt Mỹ tên tuổi được nhắc đến khắp chiến trường. Tất cả đã khiến cho cái tên Binh đoàn Than ngày càng lừng danh.
Đất nước thống nhất, hầu hết những chiến sĩ của Binh đoàn Than lại trở về với các mỏ, nơi trước đó đã ra đi. CCB Lưu Văn Quý về lại mỏ Hà Tu tiếp tục công tác như ngày chưa có chiến tranh. Hiện nay, ông nghỉ hưu, sống cùng con cháu ở phường Hồng Hải (TP Hạ Long). Chiến tranh đã lùi rất xa nhưng ký ức về những năm tháng ấy với ông Quý, ông Thinh, ông Đích và nhiều đồng đội vẫn còn vẹn nguyên. Ông Quý kể, nhiều đêm mất ngủ, ký ức chiến tranh lại ùa về, tưởng như đồng đội vẫn còn đây, vẫn là thợ mỏ trẻ trung mới cầm súng. Còn những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968 thì với ông hệt như mới hôm qua vậy…
Phạm Học
[links()]
Ý kiến (0)