Tất cả chuyên mục

Trần Nhân Tông là vị vua thứ 3 của triều Trần, người sáng lập Thiền phái Trúc lâm Yên Tử. Và một điều thật thú vị là cuộc đời và sự nghiệp của Ngài có rất nhiều sự kiện gắn liền với những năm Ngọ…
Trần Nhân Tông là người tuổi Ngọ, sinh năm Mậu Ngọ (1258). Thời điểm đó cũng là lúc thần dân Đại Việt đang ăn mừng chiến thắng chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Nhưng quân Nguyên Mông vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược; vì thế có thể nói, hoàng tử Khâm ra đời có lẽ là điềm lành báo hiệu sự xuất hiện của một người anh hùng độ thế. Về điểm này, Đại Việt sử ký toàn thư đã miêu tả dung mạo của Ngài như sau: “Vua huý là Khâm, con trưởng của vua Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần tuý, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn”. Sau này, người ta cũng tìm thấy trên phần đề từ của bức hoạ “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” những lời ngợi khen Trần Nhân Tông: “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”.
![]() |
Hình ảnh Trần Nhân Tông trong bức hoạ “Trúc lâm đạo sĩ xuất sơn chi đồ”. Ảnh: Tư liệu |
Mùa đông năm Nhâm Ngọ (1282) khi mới 24 tuổi, vua Trần Nhân Tông đã triệu tập hội nghị Bình Than bàn phương hướng kháng chiến khi quân Nguyên Mông đang chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai. Đây là hội nghị bàn hai vấn đề cốt tử: Xác định phương hướng chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chiến đấu. Tại đây, vua Trần Nhân Tông đã ra quyết định sáng suốt là phong Trần Quốc Tuấn chức Quốc công Tiết chế nắm quyền Tổng chỉ huy binh lính nhà Trần; Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cũng được xá tội và phong làm Phó Đô tướng quân.
12 năm sau, năm Giáp Ngọ - 1294, Trần Nhân Tông lúc này đã là Thái thượng hoàng nhưng vẫn thân chinh dẫn quân dẹp loạn Ai Lao. Vốn không thích chiến tranh, nhưng vì Ai Lao đã nghe lời dụ dỗ của nhà Nguyên quấy phá biên giới phía Tây nên buộc Trần Nhân Tông phải dẫn theo những tướng giỏi đi đánh để giữ vững bờ cõi. Trong bài thơ “Tây chinh đạo trung”, vua Trần Nhân Tông đã nói rõ mình không muốn mang tiếng mê chinh chiến như Hán Vũ Đế…
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cũng trong năm Giáp Ngọ, vào tháng 7 mùa thu, Trần Nhân Tông đi chơi ở hành cung Vũ Lâm (thuộc huyện Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay) và đã quyết định xuất gia ở đó. Sau đó, Ngài lên núi Yên Tử trì giới khổ hạnh, viết sách để hệ thống triết thuyết của mình, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tuy nhiên, Ngài vẫn dõi theo việc nước và chỉ bảo vua con trị nước.
Mùa hạ năm Bính Ngọ (1306) 2 năm trước khi viên tịch, Trần Nhân Tông đứng ra tổ chức hôn lễ cho Công chúa Huyền Trân và vua Chiêm Thành là Chế Mân. Vua Chiêm đã dâng Châu Ô và Châu Rí cho Đại Việt làm sính lễ cầu hôn. Vì thế, có thể nói Trần Nhân Tông là người có công giúp cho Đại Việt mở rộng bờ cõi về phương Nam (đến Thuận Hoá tức Thừa Thiên Huế ngày nay), góp phần thắt chặt tình bang giao giữa hai nước Việt - Chiêm. Về công trạng của Trần Nhân Tông, sử gia Ngô Sĩ Liên đánh giá: “Vua Nhân Tông hai lần chiến thắng giặc ngoại xâm khiến cho thiên hạ đã tan mà lại hợp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt đời Trần không còn nạn xâm lược…”.
Và một điều nữa cũng rất thú vị là chính Ngài khi nói đến giang sơn đất nước vững bền, đã nhắc đến “con ngựa” trong bài thơ vịnh con ngựa đá lấm bùn bên lăng mộ tiền nhân: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu”.
Có thể nói, non sông vững vàng nhờ hào khí dân tộc và thời đại đã toả sáng, kết tụ trong một nhân vật kiệt xuất: Người anh hùng tuổi Mậu Ngọ, Trần Nhân Tông.
Huỳnh Đăng
Ý kiến ()