Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 19/12/2024 00:35 (GMT +7)
Lợi ích kép từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng
Thứ 4, 02/11/2022 | 08:07:10 [GMT +7] A A
Chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xã hội hóa nghề rừng, nâng cao giá trị gia tăng của rừng. Tại Quảng Ninh, chi trả DVMTR trong gần 10 năm qua là một nguồn thu đáng kể để hỗ trợ các chủ rừng trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại các khu rừng có cung ứng DVMTR.
Nâng cao giá trị gia tăng của rừng
Hiện diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh là trên 435.000ha (chiếm gần 70% diện tích tự nhiên của tỉnh), độ che phủ rừng duy trì ổn định 55%, hệ sinh thái rừng phong phú, đa dạng (cả trên cạn, ven biển và trên các đảo). Trong những năm qua, tài nguyên rừng Quảng Ninh không chỉ có đóng góp đáng kể về giá trị kinh tế - xã hội mà còn có vai trò phát triển du lịch, bảo vệ an ninh, quốc phòng cũng như cung ứng các giá trị về DVMTR.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, từ năm 2015 đến nay, Quảng Ninh đã triển khai nghiêm túc chính sách chi trả DVMTR. Trong đó giai đoạn 2015-2020, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng đã thực hiện ký hợp đồng ủy thác chi trả tiền DVMTR với 4 đơn vị, thuộc 3 loại hình, gồm: Cơ sở sản xuất thủy điện; cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch; tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Riêng từ năm 2021 đến nay, tỉnh Quảng Ninh bổ sung thu thêm một loại hình đối với 28 đơn vị là các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước từ nguồn nước phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Theo đó, tổng diện tích có rừng được chi trả DVMTR cho các chủ rừng trên địa bàn tỉnh là gần 170.000ha, gồm 14 lưu vực từ lưu vực sông Trung Lương (TX Đông Triều) đến lưu vực sông Ka Long (TP Móng Cái). Mức thu tiền DVMTR bình quân là trên 4,2 tỷ đồng/năm, trong đó năm 2021, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh được Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam điều phối 3,6 tỷ đồng để chi trả tiền DVMTR cho các đơn vị có mức chi trả tiền DVMTR bình quân 1ha thấp nhất trên địa bàn tỉnh.
Căn cứ kế hoạch thu, chi tiền DVMTR được UBND tỉnh phê duyệt hàng năm, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh đã triển khai thực hiện chi trả tiền DVMTR tới các chủ rừng là tổ chức và các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, UBND xã nơi có cung ứng DVMTR theo quy định thông qua hình thức chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Năm 2022, số hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được hưởng lợi tiền DVMTR là trên 13.000 hộ và số chủ rừng nhóm II là 25 đơn vị.
Ông Nguyễn Văn Bông, Chi cục phó Chi cục Kiểm lâm (Sở NN&PTNT), cho biết: Hằng năm nguồn kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước cho công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và phát triển rừng vẫn còn rất eo hẹp, chỉ đáp ứng khoảng 1/3 hoạt động thực tế. Vì vậy, việc chi trả DVMTR được xem như một trong những bước đột phá quan trọng trong ngành Lâm nghiệp. Từ nguồn vốn của Quỹ đã hỗ trợ thêm một phần cho các chủ rừng, các ban quản lý, các công ty lâm nghiệp trong việc đầu tư trồng rừng, chăm sóc và thuê khoán bảo vệ rừng. Đặc biệt là việc hưởng lợi từ chính sách chi trả DVMTR người dân trên địa bàn tỉnh ngày càng nâng cao ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ, chăm sóc rừng. Nhờ đó, những cánh rừng trên địa bàn tỉnh ngày càng được mở rộng về diện tích, nâng cao trữ lượng, chất lượng rừng. Nhiều cánh rừng đạt và vượt các tiêu chuẩn rừng tự nhiên giàu có, được xem như bảo tàng xanh lưu giữ và bảo tồn hệ sinh thái rừng Việt Nam,
Bổ sung nguồn lực để phát triển
Sau gần 10 năm thực hiện chi trả DVMTR, chính sách này đã giảm nhẹ gánh nặng lên ngân sách nhà nước trong việc đầu tư vào bảo vệ và phát triển rừng cũng như đảm bảo an sinh xã hội của người làm nghề rừng. Tuy nhiên, số tiền chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh còn thấp so với các địa phương khác trong cả nước, bình quân năm 2022 chỉ đạt 29.000 đồng/ha.
Theo nhiều chuyên gia trong lĩnh vực lâm nghiệp, không chỉ riêng Quảng Ninh mà ở những địa phương khác, một số nội dung về chi trả DVMTR được quy định tại Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ ban hành tháng 11/2018 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định. Đặc biệt là thiếu hướng dẫn cụ thể đối với đối tượng chi trả là cơ sở nuôi trồng thuỷ sản có sử dụng nguồn lực từ rừng, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng, cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các bon của rừng.
Nhằm giúp các chính sách về chi trả DVMTR ngày càng hiệu quả, phù hợp với bối cảnh thực tiễn hiện nay, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã triển khai xây dựng mô hình thí điểm chi trả DVMTR đối với hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, trong đó có rừng ngập mặn Đồng Rui (huyện Tiên Yên). Đây cũng là mô hình nằm trong khuôn khổ Dự án Hiện đại hoá ngành lâm nghiệp Việt Nam.
Sở dĩ đối tượng chi trả được nghiên cứu mở rộng vì trong thực tế đã tồn tại một số mô hình tương tự. Chẳng hạn, các cá nhân, hộ gia đình khai thác ngao giống trong khu phục hồi sinh thái của Vườn quốc gia Xuân Thuỷ (tỉnh Nam Định) đã đóng góp từ 1-3 triệu đồng/ha mặt nước/năm, còn các cá nhân hộ gia đình nuôi ngao đóng góp 1 triệu đồng/ha mặt nước/năm để hỗ trợ hoạt động của BQL Vườn quốc gia Xuân Thuỷ và các hoạt động phát triển cộng đồng tại các xã vùng đệm của vườn quốc gia. Tương tự như vậy, các cá nhân/hộ gia đình nuôi ngao trong khu vực gần rừng ngập mặn tại xã Vĩnh Hải (tỉnh Sóc Trăng) cũng sẵn sàng chi trả 150.000 đồng/ha rừng ngập mặn/năm để hỗ trợ cho việc phục hồi rừng ngập mặn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu gần đây như nghiên cứu của Tổ chức Nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) năm 2019 hay nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế lâm nghiệp năm 2020 tại một số tỉnh ven biển gồm: Thái Bình, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị… đều cho thấy việc triển khai chi trả DVMTR đối với các hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trong rừng ngập mặn là rất tiềm năng
Qua nghiên cứu cho thấy, hệ sinh thái rừng ngập mặn Đồng Rui có diện tích và chất lượng tốt nhất ở khu vực miền Bắc. Hiện tại diện tích rừng ngập mặn Đồng Rui đang được giữ ở mức ổn định (khoảng trên 1.800ha). Từ năm 2006, rừng ngập mặn Đồng Rui được giao cho cộng đồng các thôn Thượng, Hạ, Trung và Bốn quản lý. Mỗi thôn đều thành lập các tổ quản lý, bảo vệ rừng ngập mặn với số lượng 3-5 người, với nhiệm vụ chính là tuần tra, theo dõi, giám sát và xử lý tình huống vi phạm quy định quản lý bền vững rừng ngập mặn. Các tổ được nhận kinh phí hoạt động từ một số dự án, tuy nhiên, hiện tại nguồn kinh phí này không còn nữa, bởi vậy từ năm 2019 trở lại đây, 400/1.874ha rừng ngập mặn Đồng Rui được cấp kinh phí quản lý bền vững từ nguồn ngân sách tỉnh với định mức là 450.000 đồng/ha/năm. Hiện rừng ngập mặn Đồng Rui cung cấp nhiều loại thuỷ sản có giá trị cao (vạng, ngán, sá sùng, bông thùa…) cho khoảng 120-150 hộ gia đình/thôn (chiếm 60% số hộ gia đình trong xã) khai thác thủy sản từ rừng ngập mặn Đồng Rui. Sản lượng khai thác năm 2021 đạt 560 tấn, sản lượng từ nuôi trồng đạt trên 840 tấn.
Theo TS. Trần Thị Thu Hà, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam: Kết quả nghiên cứu ban đầu trong việc xây dựng mô hình thí điểm này tại Quảng Ninh cho thấy, đa số các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản đều có nhận thức tốt về vai trò của rừng ngập mặn đối với hoạt động nuôi trồng thuỷ sản và có hiểu biết nhất định về cơ chế chi trả DVMTR. Trong phạm vi khảo sát của đơn vị đã có 76% số hộ gia đình, doanh nghiệp sẵn sàng chi trả với mức phổ biến từ 30-40% thuế đất nuôi trồng thuỷ sản, tương đương khoảng 900.000 - 1.200.000 đồng/ha đất được giao/năm. Nhất là khi những người dân này đã từng có trải nghiệm về sản lượng và chất lượng thủy sản bị suy giảm nhanh chóng khi rừng ngập mặn bị tàn phá.
Còn theo TS. Phạm Thu Thuỷ, Tổ chức CIFOR, rừng ngập mặn có thể cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ môi trường, như: Dịch vụ hấp thụ, lưu trữ, bể chứa các bon; bồi lắng và giảm bùn thải; chống xói lở bờ biển; chắn sóng; cung ứng nước sạch, lọc kim loại nặng, lọc ô nhiễm; cung ứng bãi đẻ; vẻ đẹp cảnh quan và nguyên liệu thực phẩm. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia thực hiện các chính sách liên quan đến chi trả DVMTR ngập mặn, như Indonesia, Mexico, Kenya, Bangladesh… Do đó, việc sửa đổi chính sách liên quan đến chi trả DVMTR trong hoạt động nuôi trồng và khai thác thuỷ sản sẽ giúp có thêm cơ chế khuyến khích bảo tồn rừng ngập mặn hiện có. Tuy nhiên, cũng cần tính đến các yếu tố liên quan đến định lượng dịch vụ hệ sinh thái, tính bền vững của các dịch vụ hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng như bảo đảm điều kiện và tính công bằng trong chia sẻ lợi ích.
Hiện nay, từ việc tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, khai thác, nuôi trồng thủy sản, hoạt động du lịch và công nghiệp ở các vùng ven biển phát triển, đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Mặc dù diện tích rừng ven biển chỉ chiếm khoảng 3% tổng diện tích rừng quốc gia, nhưng rừng ven biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn chặn sóng, gió, hạn chế xói lở bờ biển, bảo vệ đê biển, bảo vệ sinh kế của người dân.
Theo ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam: Việc xây dựng mô hình thí điểm chi trả DVMTR đối với hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tại xã Đồng Rui là sự cần thiết. Qua việc thí điểm này sẽ giúp mở rộng nguồn thu cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng tại khu vực rừng ven biển, góp phần ổn định được sinh kế và hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu, từ đó tạo tiền đề để áp dụng thực hiện cho các diện tích rừng ngập mặn khác của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và toàn quốc nói chung. Điều này cũng sẽ giúp các chính sách về chi trả DVMTR ngày càng hiệu quả, phù hợp với bối cảnh thực tiễn hiện nay. Do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý để hoàn thiện chính sách, tham mưu cho Bộ NN&PTNT sửa đổi Nghị định 156/2018/NĐ-CP, trong đó có nội dung liên quan đến DVMTR.
Hoàng Nga
Liên kết website
Ý kiến ()