Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 20:13 (GMT +7)
Bảo vệ môi trường song hành cùng phát triển kinh tế - xã hội
Thứ 2, 09/09/2024 | 08:03:56 [GMT +7] A A
Quảng Ninh hiện là một trong số ít những địa phương được cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, các chuyên gia đánh giá là địa phương đã và đang từng bước hài hòa, hạn chế tối đa được xung đột giữa phát triển KT-XH và vấn đề bảo vệ môi trường. Có được kết quả đó, bên cạnh tập trung nguồn lực phát triển các ngành, lĩnh vực trọng điểm, tỉnh luôn dành sự quan tâm đặc biệt và nguồn lực thỏa đáng cho công tác bảo vệ môi trường với quan điểm "không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng nóng”…
Năm 2023, Quảng Ninh có Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) cao nhất cả nước với tổng điểm của cả 4 chỉ số thành phần là 26 điểm, với các điểm thành phần: Giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu (7,41 điểm); Đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường tối thiểu (6,18 điểm); Vai trò lãnh đạo của chính quyền tỉnh trong thúc đẩy thực hành Xanh (6,68 điểm); Chính sách và dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường (5,73 điểm). PGI là bộ chỉ số được khởi xướng từ năm 2022 với ý nghĩa góp phần chung tay từ phía cộng đồng doanh nghiệp, chính quyền địa phương vào thực hiện chủ trương chính sách quan trọng của Đảng và Chính phủ về giải quyết những thách thức lớn toàn cầu trong đó có các vấn đề về biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Việc đứng đầu cả nước về Chỉ số Xanh là sự ghi nhận xứng đáng với Quảng Ninh trong công tác bảo vệ môi trường.
Để có được kết quả này, không phải ngày một ngày hai mà là cả quá trình thực hiện của tỉnh trong thời gian dài. Quảng Ninh đã nhất quán đề ra các giải pháp, lộ trình thực hiện bài bản nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, quyết tâm thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường tự nhiên. Điều này, được thể hiện rõ nét trong các quy hoạch quan trọng của tỉnh, điển hình là Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của tỉnh do tư vấn Hoa Kỳ lập; Quy hoạch môi trường tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do tư vấn Nhật Bản lập. Cùng với đó là các Nghị quyết, chương trình riêng về công tác bảo vệ môi trường, như Nghị quyết 236/NQ-HĐND (ngày 12/12/2015) của HĐND tỉnh khóa XII về những chủ trương, giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường tỉnh giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 10-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh nguồn nước giai đoạn 2022-2030…
Song song với đó, tỉnh cũng tổ chức nhiều hội thảo, chương trình làm việc, nhằm mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực để huy động nguồn lực, kinh nghiệm, thực tiễn trong nước và quốc tế cho công tác bảo vệ môi trường. Có thể kể đến như: Hội thảo quốc tế “Công nghệ phù hợp thân thiện môi trường trong tận dụng chất thải và phục hồi môi trường ở vùng sâu, vùng xa” thuộc khuôn khổ Dự án thiết kế phát triển mạng lưới truyền thông tương tác giữa ASEAN - Nga, nhằm trao đổi công nghệ phát triển nông nghiệp bền vững; làm việc với JICA Việt Nam, Đại học Saitama và Đại học Xây dựng về các nội dung đề xuất thúc đẩy tái chế chất thải rắn xây dựng; khởi động dự án xử lý chất thải thành năng lượng…
Hằng năm, tỉnh chi không dưới 3% tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường, cao hơn mức quy định của Trung ương. Điều này đã được Chính phủ và Bộ TN&MT đánh giá rất cao khi hiện nay các địa phương khác trong cả nước chỉ mới chi 1% hoặc dưới 1% tổng ngân sách cho lĩnh vực này. Bên cạnh chi từ nguồn ngân sách, tỉnh còn bố trí nguồn Quỹ phát triển khoa học công nghệ của tỉnh, trung bình hàng năm đạt từ 1,2-3,6 tỷ đồng cho các nhiệm vụ, dự án về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh. HĐND tỉnh hàng năm đều ban hành quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp để chi cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn cũng đã chú trọng đầu tư nguồn lực, xây dựng quy chế, chiến lược phát triển doanh nghiệp gắn với công tác bảo vệ môi trường; chủ động kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải, xử lý nước thải, khí thải bảo đảm theo quy chuẩn… Đơn cử, như ngành Than, năm 2021 đã phê duyệt 5 phương án bảo vệ môi trường tổng thể tại các khu vực sản xuất dễ phát sinh nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường là: Mỏ than Hà Tu; bãi thải Bàng Nâu; Nhà máy tuyển than và cảng Cửa Ông; cảng Làng Khánh và cảng Km6. Ngoài 5 vị trí này, năm 2022, TKV tiếp tục phê duyệt thêm 2 phương án bảo vệ môi trường tổng thể tại cụm Khe Chàm và mặt bằng 56, mặt bằng +17 Mạo Khê. Đây là 7 khu vực được TKV xác định nằm trong phương án môi trường tổng thể vùng than Quảng Ninh giai đoạn đến năm 2025 và định hướng tới năm 2030. Đến nay, các công trình môi trường trọng điểm tại 7 khu vực trên đưa vào hoạt động đang phát huy hiệu quả trong việc giảm thiểu, ngăn chặn tác động xấu từ chế biến, vận chuyển, tiêu thụ than tới môi trường xung quanh. Riêng năm 2024, TKV tiếp tục quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường, thông qua hàng loạt kế hoạch hành động, với nguồn lực chi phí trên 1.100 tỷ đồng. Hiện nay, Tập đoàn đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án bảo vệ môi trường Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam giai đoạn 2022-2025, định hướng tới 2030. Theo đó, tập trung vào trồng cây cải tạo phục hồi môi trường, sử dụng lại khai trường mỏ làm quỹ đất và hồ chứa nước tự nhiên phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Cùng với đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện các phương án bảo vệ môi trường tổng thể tại 7 vị trí trọng điểm đã được phê duyệt.
Các đơn vị sản xuất xi măng, nhiệt điện cũng đã triển khai lắp đặt công tơ điện tử để đo điện năng tiêu thụ độc lập của hệ thống lọc bụi tĩnh điện ở các vị trí thuận lợi để cơ quan quản lý và người dân dễ dàng giám sát. Một số đơn vị còn đầu tư lắp đặt hoàn thiện hệ thống quan trắc môi trường tự động; đầu tư, nâng cấp hệ thống xử lý khí bụi; tận dụng tro, xỉ thải nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất gạch không nung... Qua đó, đã góp phần giảm thiểu phát thải ô nhiễm môi trường, tiết kiệm tài nguyên.
Các cơ sở sản xuất trong khu dân cư, tỉnh đã hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ đảm bảo thực hiện di dời cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp quy hoạch đô thị phải di dời trên địa bàn. Theo kết quả rà soát và báo cáo của các địa phương, trên địa bàn tỉnh có 2.361 cơ sở phải di dời. Đến nay, công tác di dời đã triển khai thực hiện tại TP Hạ Long, TP Cẩm Phả, TX Đông Triều và huyện Ba Chẽ...
Nhờ được đầu tư nguồn lực tài chính một cách thỏa đáng, môi trường của tỉnh ngày càng được cải thiện, mức độ ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực được kiểm soát, việc thu gom xử lý rác thải, nước thải tập trung tại các trung tâm đô thị có nhiều chuyển biến tích cực. Ô nhiễm môi trường không khí đã được kiểm soát chặt chẽ hơn thông qua hệ thống quan trắc môi trường tự động. Trên địa bàn tỉnh không còn cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, không còn điểm ô nhiễm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật. Tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết một số vấn đề môi trường, đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh.
Hoài Anh
Liên kết website
Ý kiến ()