Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 04/05/2024 21:18 (GMT +7)
“Các địa danh cũng là những tài nguyên cần khai phá...!”
Thứ 3, 20/03/2012 | 05:02:37 [GMT +7] A A
Từ việc thấy những cái tên cứ là lạ, gợi sự tò mò và rồi không yên khi chưa sưu tầm, nghiên cứu cho đến nơi, đến chốn, đến nay, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Tống Khắc Hài và các cộng sự đã cơ bản hoàn thành cuốn sách “Các địa danh Quảng Ninh”. Cuốn sách ra đời sẽ cho người đọc cơ hội hiểu thêm về ý nghĩa những địa danh tưởng như quen thuộc nhưng có khi lại ẩn chứa nhiều điều mới lạ, đầy thú vị... Nhân dịp này, phóng viên Báo Quảng Ninh đã có cuộc trò chuyện cởi mở cùng ông.
Mỗi địa danh có nhiều cách giải thích khác nhau...
- Thưa ông, xuất phát từ đâu ông lại có ý định viết một cuốn sách về các địa danh của Quảng Ninh?
+ Tôi quê ở ngoại thành Hải Phòng, ra đây thấy lạ, thấy ngỡ ngàng về các địa danh lắm! Càng đi lại càng thấy gợi những tò mò của mình, trong đầu hình thành vô số câu hỏi, như moong là gì, Bãi Cháy thì có lửa cháy không, cháy bao giờ, rồi Móng Cái là sao, Hà Cối thế nào.v.v? Cứ trăn trở như vậy, có cái hỏi han, cái đọc sách mà hiểu, có cái không biết tìm ở đâu ra, tất cả làm cho mình không yên!
Tôi biết, địa danh ra đời phải có ý nghĩa, lý do, phải liên quan đến các sự kiện về chính trị, xã hội, phải gắn với các nhân vật, các tích chuyện... cũng là những tài nguyên cần khai phá. Vì vậy, năm 1995, tôi viết Dư địa chí Quảng Ninh, định làm một chương giới thiệu những địa danh tiêu biểu của tỉnh nhưng khi “bâm” vào làm thì thấy tư liệu quá phong phú không tải hết nên đành gác lại, sau khi Dư địa chí hoàn thành tôi mới làm tiếp.
Vịnh Hạ Long có rất nhiều cách lý giải khác nhau nhưng theo ý kiến của ông Tống Khắc Hài thì nghĩa gốc chỉ nơi đậu thuyền... |
- Các địa danh hiện nay có khá nhiều cách giải thích khác nhau, đưa ra một sự lý giải nào đó, ông có lường đến việc sẽ tạo nên những tranh cãi không?
+ Tôi biết, ở đây tôi chỉ tạm đưa ra một cách lý giải thôi, cố gắng tìm đến sát với thực tế nhất. Như với tên Hạ Long chẳng hạn, tên này thường mọi người hay lý giải gắn với truyền thuyết rồng xuống, còn Bái Tử Long là đàn rồng con chầu về mẹ, vậy nhưng tại sao mãi đến giờ mới có tên ấy? Như sách cổ Trung Quốc gọi đây là biển Vạn Ninh hay biển Ngọc Sơn, các nhà thơ sau này gọi là Lục thuỷ, Lục hải, tức nước xanh, biển xanh rồi gọi là biển Vân Đồn. Triều Nguyễn thì gọi là vịnh Nghiêu Phong, Hoa Phong, tên này đã đi cả vào thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương... Tôi cho là Vịnh Hạ Long chỉ có từ khi dùng chữ quốc ngữ. Ngày 12-3-1883, Hạ Long đã có trong văn bản của tên Henry báo về Pháp quốc đã chiếm được vùng vịnh này.
Nói vậy để thấy một từ quen thuộc thế thôi mà không đơn giản. Tôi tìm các từ điển Trung Quốc thì riêng chữ “long” có đến mười mấy chữ với nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, tôi thấy, nếu chữ long mà có bộ “tài gẩy” bên trái thì là chỗ đậu thuyền. Người Hoa đi thuyền, khi xuống buồm, thả neo thường gọi nhau “xe lủng”, viết ra chữ và đọc ra âm Hán - Việt là Hạ Long. Người Hoa ngày xưa làm ăn ở vùng biển này đông lắm, hơn cả người Việt cơ, vì vậy, trong cách nói của họ, Hạ Long là nơi đậu thuyền. Còn chữ Bái Tử Long trong chữ Hán là lá cờ nhỏ để làm tín hiệu, xuất phát từ cách đánh, thả lưới hay có những lá cờ bé con để làm hiệu. Nơi đánh cá, vùng có nhiều nơi thả lưới là Bái Tử Long. Ngoài ra, còn một cách lý giải nữa. Khi những người lính Pháp đến đây, họ thấy cảnh trí giống như vùng Tu - lông quê hương của họ ở Pháp nên đã đặt là “Baie Toulon” tức vịnh Tu - lông, đọc là Be tu long, người Việt đọc là Bái Tử Long...
Chỉ riêng một địa danh vậy thôi đã có bao cách giải thích khác nhau. Tôi làm cuốn này không khẳng định ngay mà vẫn tôn trọng dư luận. Chúng tôi sẽ có sự thảo luận, bàn bạc thêm với những kiến thức và sự lý giải khác nữa.
Địa danh là một kho kiến thức rất có ích...
- Vậy nhưng hẳn là sự hình thành các địa danh của Quảng Ninh cũng chịu sự chi phối từ một vài yếu tố chung nào đó chứ, thưa ông?
+ Đúng vậy. Đi sâu vào tìm hiểu các địa danh Quảng Ninh, tôi thấy có ba vấn đề. Thứ nhất, đây là vùng đất có người ở từ rất lâu đời nên có nhiều sự kiện, biến động lịch sử ghi dấu ở đây, có khi lên đến hàng nghìn năm. Thứ hai là dấu ấn của sự khai phá. Quảng Ninh là nơi tiếp xúc với các tộc Bách Việt, ngày nay là các dân tộc thiểu số ở Quảng Đông, Quảng Tây, Chiết Giang như người Đản, người Lê, người Ngái, sau là người Hán, gọi chung là người Hoa. Họ đánh cá, khai thác rừng, làm ruộng, phu mỏ cho Hoa kiều, cho Tây, họ đi theo chân các đoàn quân chinh phục đến đây làm ăn, sinh sống. Rồi người Sán Dìu, Sán Chay, người Tày từ dãy Thập vạn đại sơn sang Bình Liêu đến người Dao Thanh Y, Thanh Phán... Họ khai phá mảnh đất này đầu tiên và để lại những địa danh theo ngôn ngữ của họ. Như ở Hải Hà giờ vẫn còn bến đò Má Ham (tiếng Hán nghĩa là mẹ gọi), có thôn Lập Mã (tức dừng, đứng ngựa lại); ở Bình Liêu có rất nhiều những tên Na, Nà tức cánh đồng, nơi khai phá trồng trọt chủ yếu là người Tày, người Nùng sinh sống; Cô Tô thì địa danh hay có chữ Vàn, tức là bãi, dấu vết của người Đản, người Lê để lại...
Thứ ba là ảnh hưởng của tiếng Pháp. Người Pháp đến xâm lược và tổ chức khai mỏ, kỹ thuật đào xuống thấp gọi là “moins”, người Việt đọc là moong. Cũng từ “moins” này, người Pháp khoanh lại một vùng đều đào thấp dưới mức dương đề là “Moins Dương”, dương là tiếng Hán, ta đọc là Mông Dương. Những chữ kiểu này rải rác ở trong mỏ khá nhiều.
- Phức tạp như thế, vậy cụ thể ông đã làm như thế nào?
+ Tôi phải vận dụng kiến thức của ngôn ngữ địa phương, tiếng dân tộc, tiếng Hán, tiếng Pháp, cố gắng giải thích bằng mọi nguồn tri thức, kể cả những giả thiết, truyền thuyết dân gian... Có những từ đơn giản thôi, lại có những từ mới sinh ra gần đây như từ “cọc” biến thành từ “cột” trong cọc 6, cọc 3, cột 5, cột 8 chẳng hạn.
Đi vào cụ thể, trước tiên, tôi liệt kê tất cả các địa danh trong tỉnh, từ thôn, khe, bản trở lên rồi tên những núi non, tên biển, tên đường, tên cầu... Với mỗi địa danh, tôi giải thích nghĩa của từ, thực tế cũng còn những từ mới chỉ liệt kê chứ chưa giải thích được, sau chủ yếu là giới thiệu địa danh ấy có gì, diễn biến ra sao, trước đây có bao nhiêu dân, dân tộc gì, diện tích bao nhiêu, có sản vật, nhân vật, di tích, danh thắng gì... nghĩa là tất cả những kiến thức mang tính địa chí ở một địa danh.
Tôi không làm một mình mà còn 2 cộng tác viên nữa. Đó là đại tá Nguyễn Ái, một chuyên gia về bản đồ quân sự ở Hà Nội và ông Nguyễn Cảnh Loan làm nhiệm vụ tra cứu sách vở tìm các tư liệu để gắn vào các địa danh. Còn tôi chủ yếu là tra cứu, tìm tài liệu để giải thích các địa danh. Công việc này đòi hỏi sự tỷ mỷ, phải làm đi làm lại mấy lần rồi. Khi hoàn thiện có lẽ sách sẽ dày cỡ 600 trang, muộn nhất thì năm 2013 sẽ xuất bản. Hiện tôi đã có văn bản đề nghị tỉnh tài trợ in, còn như Hội VNDG Việt Nam cũng bảo đưa lên in, như vậy, sách sẽ phát hành toàn quốc, oai hơn nhưng về tỉnh chỉ có vài cuốn, giá trị sử dụng thiết thực phục vụ cho địa phương rất hạn chế. Đó là điều tôi thực sự không muốn.
- Nghĩa là, mục tiêu của nhóm chủ yếu phục vụ cho địa phương?
+ Cuốn sách này thuộc loại hình sách bách khoa, dạng từ điển, có giá trị sử dụng trước hết cho Quảng Ninh, rất có lợi cho những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu. Ở châu Âu có hội địa danh rất được coi trọng, còn ở ta việc sử dụng địa danh còn tuỳ tiện, có nhiều những cái tên rất hay lại bỏ như tên Trường Phan Thị Khương ở Hạ Long, tên đường Trương Quốc Dụng ở TX Quảng Yên chẳng hạn.v.v.
Thực tế, dẫu chỉ quan sát thôi thì mỗi người đến đâu cũng có những tò mò tìm hiểu về các địa danh, tìm ra sẽ thấy nhiều phát hiện rất thú vị, đem lại cho người ta sự gắn bó, tình yêu quê hương, đất nước. Địa danh là một kho kiến thức rất có ích với nhiều đối tượng, nhất là khi dạy học, làm báo, làm văn rồi dẫn khách du lịch đi thăm thú cũng có thể tìm hiểu thêm để làm phong phú vốn sống, cung cấp cho du khách những khám phá thú vị, tạo thành thành quả của chuyến đi.
- Xin cảm ơn ông!
Ngọc Mai
Liên kết website
Ý kiến ()