Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 12:19 (GMT +7)
Chất vấn tại hội trường: Đúng, trúng những vấn đề cử tri quan tâm
Thứ 6, 08/12/2023 | 08:13:24 [GMT +7] A A
Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 16, HĐND tỉnh khoá XIV, sáng 8/12, diễn ra phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường. Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, điều hành phiên chất vấn.
Tại phiên chất vấn, 16 đại biểu đăng ký chất vấn với nhiều nội dung thuộc các lĩnh vực: Kinh tế ngân sách (8 nội dung), văn hóa xã hội (7 nội dung), pháp chế (2 nội dung), liên quan đến nhiều sở, ngành của tỉnh. Các nội dung đề xuất chất vấn phản ánh được những vấn đề được dư luận, cử tri, người dân quan tâm và những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý nhà nước của nhiều ngành, lĩnh vực.
Căn cứ vào các nội dung đại biểu đăng ký và vấn đề cử tri quan tâm, phiên chất vấn sẽ tập trung vào 3 nhóm vấn đề chính gồm: công tác giải ngân vốn đầu tư công; công tác quản lý Nhà nước đất đai, triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh về lĩnh vực đất đai, môi trường; các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, phòng chống ma túy trong học đường.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký nhấn mạnh, phiên chất vấn sẽ trên tinh thần hỏi nhanh, gọn - trả lời đi thẳng vào vấn đề; dành thời gian để có nhiều câu hỏi và câu trả lời, không ngại tranh luận để làm rõ, đi đến cùng vấn đề.
"Nóng" vấn đề giải ngân vốn đầu tư công
Đại biểu Đinh Trung Kiên, Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô chất vấn liên quan đến giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2023. Theo đại biểu, tại Nghị quyết số 128/NQ-HĐND ngày 9/12/2022 của HĐND tỉnh có nêu: “Phấn đấu đến 31/12/2023, giải ngân 100% kế hoạch vốn bố trí dự toán đầu năm, trong đó đến hết Quý III/2023 giải ngân đạt tối thiểu 80% kế hoạch vốn; hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng các công trình, dự án trọng điểm”. Tuy nhiên qua theo dõi kế hoạch giải ngân và tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm nhận thấy: Tính đến 30/11/2023, mới giải ngân được gần 54,2% so với Kế hoạch năm 2023, một số dự án trọng điểm không hoàn thành đúng tiến độ đề ra (Dự án đường nối từ đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng (tại Km3+700) đến đường tỉnh 338 - giai đoạn 1, dự án đường Ven Sông, dự án Cầu Cửa Lục 3).
Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư giải trình rõ nguyên nhân không đạt kế hoạch giải ngân, tiến độ thực hiện các dự án và có các giải pháp thực hiện trong thời gian tới.
Đại biểu Nguyễn Mai Hùng, Tổ đại biểu Uông Bí cho biết: theo chủ trương, chỉ đạo chung của tỉnh và các Nghị quyết số 99/NQ-HĐND ngày 31/5/2022 và Nghị quyết số 125/NQ-HĐND ngày 04/11/2022 của HĐND tỉnh: Phấn đấu đến năm 2023, hoàn thành mục tiêu mỗi huyện có ít nhất một trường học công lập theo tiêu chí chất lượng cao ở mỗi cấp học giáo dục phổ thông, mỗi thành phố, thị xã có một trường THPT công lập theo tiêu chí chất lượng cao (chuẩn mức độ 2 trở lên)...”.
Đại biểu đề nghị cơ quan tham mưu trực tiếp cho UBND tỉnh thẩm định các dự án đầu tư công trên địa bàn, trách nhiệm của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư khi một số dự án trường học đã phải dừng triển khai khi có Kết luận của Thanh tra tỉnh, đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc chậm phân bổ vốn và chậm giải ngân Kế hoạch đầu tư công năm 2023.
Đại biểu Nguyễn Thị Liễu, Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô cho biết: hiện nay, tình trạng đầu năm ghi kế hoạch vốn, giữa năm điều chỉnh giảm kế hoạch vốn vẫn còn diễn ra. Trong năm 2023, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh 3 lần điều chỉnh dự toán ngân sách tại kỳ họp thứ 13, 14, 15. Nhiều dự án được tỉnh quan tâm, ưu tiên dành ngân sách hỗ trợ cho các đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn, các địa phương, nhưng nhiều chủ đầu tư, dự án có tỷ lệ giải ngân rất thấp do vướng mắc liên quan đến các thủ tục quy hoạch, đất đai, xử lý tài sản công. Điều đó cho thấy công tác tổ chức thực hiện và chấp hành chỉ đạo của tỉnh, của HĐND tỉnh còn chưa nghiêm.
Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư làm rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư trong đề xuất nhu cầu, trách nhiệm của ngành trong việc tham mưu cho UBND tỉnh phân bổ vốn.
Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư (KH&ĐT) trả lời câu hỏi của đại biểu Đinh Trung Kiên (Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô)
Tính đến ngày 5/12, vốn giải ngân đạt 8.478,2 tỷ đồng, tăng thêm so với thời điểm 30/10 là 1.446 tỷ đồng, đạt 61,4% so với kế hoạch HĐND tỉnh giao đầu năm (13.822 tỷ đồng), đạt 58,2% so với kế hoạch vốn sau điều chỉnh (14.567 tỷ đồng); cao hơn so với bình quân cùng kỳ năm 2022 (55,8%). Dự kiến, giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 theo văn bản cam kết của 25 chủ đầu tư (12 đơn vị của tỉnh và 13 địa phương) là gần 13.300 tỷ đồng, đạt 96,2% so với kế hoạch vốn HĐND tỉnh giao đầu năm.
Nguyên nhân khách quan của hiện trạng trên là do thiếu hụt nguồn vật liệu san lấp và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đánh giá tác động môi trường. Nguyên nhân chủ quan là do công tác chuẩn bị đầu tư các dự án còn chậm; công tác tổ chức triển khai thực hiện, phối hợp xử lý các khó khăn, vướng mắc giữa các chủ đầu tư và sở, ngành, địa phương còn thiếu chặt chẽ. Cùng với đó là tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Tiến độ xử lý tài sản công triển khai thực hiện các gói thầu mua sắm thiết bị chuyên dùng còn chậm. Công tác giải phóng mặt bằng một số dự án còn chậm so với tiến độ đề ra.
Trong thời gian tới, Sở KH&ĐT sẽ thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, dự báo hết những rủi ro, khó khăn, kiên quyết không để các vấn đề này ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn trong năm 2024. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm trong xử lý công việc của các bộ, cơ quan, địa phương; không để xảy ra tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, bảo đảm các công việc thuộc thẩm quyết giải quyết được xử lý nhanh chóng, kịp thời, rút ngăn thời gian thực hiện. Sau khi phân khai chi tiết kế hoạch đầu tư công, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các chủ đầu tư, UBND các địa phương thực hiện xây dựng kế hoạch giải ngân; phân công lãnh đạo chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ thực hiện và giải ngân của từng dự án cụ thể theo kế hoạch đề ra.
Trả lời chất vấn câu hỏi của đại biểu Nguyễn Mai Hùng (Tổ đại biểu TP Uông Bí), đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Sở KH&ĐT, cho biết: 4 dự án trường học mà Thanh tra tỉnh yêu cầu dừng triển khai được thực hiện theo Luật Đầu tư công và Nghị quyết 303/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ban hành ngày 9/12/2020 về phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư phát triển; nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách địa phương giai đoạn 2021-2025 tỉnh Quảng Ninh. Do đó cả 4 dự án đều thuộc thẩm quyền của HĐND huyện phê duyệt chủ trương và UBND cấp huyện phê duyệt dự án. Sở KH&ĐT không tham gia thẩm định các dự án. Sau khi thực hiện chỉ đạo của tỉnh và Thanh tra tỉnh vào cuộc thì các dự án này đều có vấn đề trong quá trình chuẩn bị như: Không phù hợp với kế hoạch sử dụng đất, suất đầu tư vượt quá so với quy định… Vì vậy Thanh tra tỉnh đã yêu cầu dừng các dự án này.
Liên quan đến nội dung này, Sở KH&ĐT nhận trách nhiệm là chưa thực sự theo sát các dự án.
Trả lời nội dung chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Liễu, Giám đốc Sở KH&ĐT cho biết: Việc điều chỉnh bổ sung dự toán căn cứ theo Luật Đầu tư công, trên cơ sở tiến độ và chỉ đạo cập nhật có những nội dung cần phải xử lý điều chỉnh.
Trong 2 năm qua, Sở KH&ĐT đã tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ ngành Đầu tư và các cơ quan tham mưu cho UBND cấp huyện triển khai đầy đủ các văn bản, pháp luật trong công tác đầu tư. Tuy nhiên, việc tiếp thu, triển khai còn hạn chế. Trong thời gian tới, Sở sẽ tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao hiệu quả công tác tham mưu chuẩn bị đầu tư. Bên đó, Giám đốc Sở KH&ĐT cũng cho rằng công tác hướng dẫn nghiệp vụ ngành, việc kiểm soát các nội dung đơn vị đầu tư đề xuất liên quan đến trình tự, thủ tục đầu tư còn chưa thực sự sát sao dẫn đến những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thanh tra, kiểm tra dự án. Sở cũng sẽ tập trung các giải pháp làm tốt hơn nữa công tác tham mưu đầu tư công.
Chất vấn Giám đốc Sở KH&ĐT về nội dung này, đại biểu Nguyễn Thị Thúy Hằng (Tổ đại biểu Hạ Long) đề nghị: Tại báo cáo 273/BC-UBND ngày 23/10/2023 của UBND tỉnh trình HĐND tỉnh tại Kỳ họp thứ 15, UBND tỉnh báo cáo còn 28 dự án đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư để triển khai thực hiện. Đề nghị Giám đốc Sở KH&ĐT báo cáo làm rõ tiến độ thực hiện đến thời điểm hiện tại? Cam kết về thời gian khởi công của các dự án nêu trên.
Liên quan đến vấn đề chậm giải ngân, đại biểu Sẻn Thị Hỷ (Tổ Móng Cái) chất vấn, tại Kỳ họp 12 HĐND tỉnh, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo các giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu vật liệu san lấp; tuy nhiên đến nay sau 1 năm thì một trong các nguyên nhân chính dẫn đến chậm giải ngân, phải gia hạn thời gian thực hiện vẫn là thiếu vật liệu san lấp, điều đó cho thấy việc thực hiện các giải pháp đã báo cáo chưa mang lại kết quả cụ thể. Đồng thời một số ý kiến cử tri hiện nay băn khoăn cho rằng, tại địa bàn như tỉnh Quảng Ninh, việc thiếu nguồn vật liệu san lấp là chưa thỏa đáng. Đề nghị ông Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo kết quả thực hiện trong năm 2023; giải pháp trong năm 2024 để không lặp lại tình trạng nêu trên.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Sẻn Thị Hỷ, đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho biết: Nguyên nhân chậm tiến độ giải ngân các dự án được xác định là thiếu vật liệu san lấp. Việc thiếu vật liệu san lấp là do vướng về các quy định của pháp luật, nhất là Luật Khoáng sản ra đời năm 2010.
Thời gian qua, các bộ ngành, cùng với tỉnh đã tích cực vào cuộc tháo gỡ, đến nay cũng đã có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên lại nảy sinh vấn đề là có đất rồi lại vướng đến đường vận chuyển. Vừa qua, Sở Giao thông vận tải đã báo cáo Bộ Giao thông vận tải cho phép cấp phép công trình tạm để vận chuyển đất nhằm tháo gỡ vấn đề này.
Giải trình thêm nội dung này, đồng chí Nguyễn Hữu Đuyến, Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh, cho biết: Liên quan đến giải ngân chậm tiến độ, khi giải quyết được vấn đề mỏ đất làm vật liệu san lấp, một trong những nguyên nhân hiện nay làm chậm tiến độ là chưa thống nhất giữa các đơn vị trong việc vận chuyển đất. Các ngành, đơn vị đã thông báo với chủ mỏ việc lấy đất là do nhà thầu, nếu chủ mỏ can thiệp vào vấn đề chở đất của các nhà thầu trúng thầu thì sẽ chuyển sang cơ quan điều tra.
Giám đốc Sở KH&ĐT trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Thúy Hằng, Tổ đại biểu Hạ Long
Trong 28 dự án có 19 dự án đã hoàn thành thủ tục đầu tư; 2 dự án là trụ sở làm việc công an xã Nguyễn Huệ tại thôn 9, xã Nguyễn Huệ, thị xã Đông Triều và trụ sở làm việc công an xã Tân Việt tại thôn Tân Lập, xã Tân Việt, thị xã Đông Triều, đã báo cáo HĐND tỉnh điều chỉnh giảm tại Nghị quyết 165/NQ-HDND tỉnh ngày 31/10/2023 do chủ trương về sắp xếp đơn vị hành chính.
Có 3 dự án UBND tỉnh đã báo cáo HĐND tỉnh điều chỉnh giảm trong kế hoạch đầu tư công trung hạn do không có khả năng thực hiện trong giai đoạn 2024-2025 và 4 dự án sẽ được phê duyệt trong quý I/2024.
Đối với thời gian khởi công, các dự án khác nhau sẽ có thủ tục thực hiện khác nhau. Vì vậy, nếu quyết liệt, quyết tâm vượt qua khó khăn, tháo gỡ kịp thời vướng mắc thì cuối năm nay các dự án mới có thể khởi công.
Làm rõ thêm nguyên nhân không đạt kế hoạch giải ngân, tiến độ thực hiện các dự án và các giải pháp thực hiện trong thời gian tới, đồng chí Vũ Văn Diện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định: Xảy ra tình trạng này, trách nhiệm đầu tiên thuộc về chủ đầu tư. Bởi hiện nay có rất nhiều các thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản, yêu cầu phải am hiểu và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các sở, ngành thường thiếu tính chủ động để thực hiện các thủ tục này.
Thứ hai là các dự án đều triển khai trên phạm vi lớn. Nhưng nhiều dự án bị lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện, trong điều chỉnh cũng như trong theo dõi dữ liệu dẫn đến không thực hiện được thu hồi đất do sự chồng chéo hoặc phải liên tục điều chỉnh.
Thứ ba là do yếu tố thụ động của đội ngũ cán bộ, từ chủ đầu tư cho đến các sở, ngành. Nhiều sở, ngành chưa chủ động hướng dẫn mà cán bộ thường chờ cho đến khi có vướng mắc mới vào cuộc và còn tình trạng văn bản “lòng vòng” giữa các sở, ngành.
Thứ 4 là do năng lực nhà thầu còn hạn chế, không đáp ứng được các quy định của dự án.
Mặt khác phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, trách nhiệm của ngành KH&ĐT còn thụ động, thiếu tính kế hoạch, dự báo và các phương án khắc phục còn chậm, thiếu cụ thể. Điều này cho thấy ngành chưa giữ được vai trò tư lệnh trong tham mưu triển khai thực hiện.
Khắc phục tình trạng này, thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo phải hoàn thành quy hoạch sử dụng đất cấp huyện; tháo gỡ khó khăn trong chuyển đổi mục đích sử dụng rừng; chấn chỉnh, siết chặt hơn hoạt động của các mỏ đất; đưa các dự án cát nghiền vào hoạt động để đáp ứng nhu cầu vật liệu san lấp.
Đặc biệt là trong năm nay, nếu những vướng mắc trên không được tháo gỡ thì UBND tỉnh sẽ trình cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm đội ngũ cán bộ liên quan.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường trách nhiệm người đứng đầu trong lĩnh vực sử dụng tài chính ngân sách, đầu tư công gắn với kiểm soát quyền lực, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí”
Giải ngân vốn đầu tư công là một vấn đề rất quan trọng để thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách. Đầu tư công không chỉ phục vụ mục tiêu phát triển còn góp phần đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, công bằng, tiến bộ xã hội. Trong thời gian qua, với sự chỉ đạo của Đảng, tỉnh có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo triển khai thực hiện. Riêng HĐND tỉnh đã xây dựng nhiều nghị quyết, thực hiện các phiên chất vấn, giải trình làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân và có giải pháp thúc đẩy theo thẩm quyền của HĐND tỉnh. Năm 2023, trong bối cảnh tình hình khó khăn, với sự biến động lớn về đội ngũ cán bộ đã tác động trực tiếp đến tâm lý của đội ngũ cán bộ, song tỉnh đã có sự nỗ lực rất lớn. Kết quả giải ngân vốn đầu tư công tính đến thời điểm này cao hơn so với năm trước.
Đồng chí nhấn mạnh: Tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công phải đi liền với khối lượng, chất lượng, tiến độ hoàn thành các dự án. Trong năm qua đã có nhiều công trình, dự án đi vào hoạt động mang lại lợi ích cho nhân dân, nhất là những dự án liên quan đến trường học, y tế… Song nhìn tổng thể, 3 năm nay phải nhận thức rõ những hạn chế mới nổi, đó là công tác chuẩn bị đầu tư còn yếu kém, chất lượng đơn vị tư vấn không đủ năng lực, chất lượng đơn vị giám sát, nhà thầu còn thấp, đặc biệt là trách nhiệm quản lý nhà nước của Sở KH&ĐT từ khâu lập kế hoạch cho lĩnh vực đầu tư công, dự báo chiến lược còn mức độ. Cùng với đó, năng lực của một số đơn vị quản lý dự án còn hạn chế; công tác giải phóng mặt bằng ở một số địa phương chưa được chú trọng; giải quyết một số vấn đề nảy sinh trên thực địa trong quá trình triển khai thực hiện dự án còn lòng vòng. Nguồn lực vật liệu san lấp ở địa phương rất dồi dào, xong khâu sau cấp phép, hậu kiểm khai thác vật liệu san lấp còn vướng mắc. Chất lượng lập dự toán từ chính quyền địa phương cấp xã, cấp huyện đến các cơ quan, đơn vị liên quan… chưa thực sự hiệu quả.
Thời gian còn lại của năm 2023, với quy mô vốn giải ngân từ giờ đến kết thúc năm còn nhiều, đây là thách thức rất lớn.
Để khắc phục tình trạng này, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh yêu cầu phải hoàn thành khối lượng, đảm bảo chất lượng, tiến độ dự án theo đúng báo cáo HĐND tỉnh từ nay đến hết 2023; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trên hiện trường. Những dự án xác định phải hoàn thành trong năm 2023 thì phải tập trung biện pháp thực hiện bằng được mục tiêu chung đó. UBND tỉnh và Sở KH&ĐT phải chịu trách nhiệm trước tỉnh nội dung này.
Đối với kế hoạch năm 2024, bám sát kết luận của Trung ương, của Tỉnh, ủy, nghị quyết của HĐND tỉnh để thực hiện nhiệm vụ đầu tư công – nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong năm 2024. Trong đó, phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường trách nhiệm người đứng đầu, trước hết là người đứng đầu ngành KH&ĐT, tài chính, các sở có liên quan và chủ tịch UBND các địa phương trong lĩnh vực sử dụng tài chính ngân sách, đầu tư công gắn với kiểm soát quyền lực, đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí để đảm bảo mục tiêu của kế hoạch - đầu tư công cũng như nhiệm vụ chi ngân sách địa phương năm 2024 đạt được yêu cầu HĐND tỉnh đã quyết nghị.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, nhất là hậu kiểm để xử lý nghiêm những vi phạm, kiên quyết không để nảy sinh tình trạng đầu năm ghi vốn, giữa năm điều vốn, cuối năm trả vốn, gắn trách nhiệm người đứng đầu.
Sở KH&ĐT có trách nhiệm chủ trì, rà soát tổng thể kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025, lũy kế vốn đã bố trí cho các dự án đã khởi công, dự án chuyển tiếp tính đến thời điểm này, dự án khởi công mới trong năm 2024 và đặc biệt là các dự án chậm tiến độ để xác định rõ những dự án phải hoàn thành trong năm 2024 - 2025 và chủ động bố trí nguồn lực, đáp ứng yêu cầu công việc, không để nảy sinh tình trạng phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản.
Sở KH&ĐT phải tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém và chủ trì tham mưu đề xuất với UBND tỉnh tổ chức hội nghị chuyên đề để khắc phục hạn chế, yếu kém trong công tác chuẩn bị đầu tư, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư theo tinh thần chủ động, tích cực, từ xa, từ sớm, từ cơ sở.
Kiên quyết có giải pháp khắc phục tình trạng lựa chọn đơn vị tư vấn, khảo sát thiết kế, lập dự án, lập kế hoạch đấu thầu không có năng lực dẫn đến tính toán tổng mức đầu tư không phù hợp với suất vốn đầu tư theo quy định; chất lượng thiết kế không đảm bảo, lập dự toán không đúng mức, đơn vị lập kế hoạch đầu tư không đúng quy định, trình tự, lựa chọn đơn vị nhà thầu không có uy tín, năng lực.
Khắc phục bằng được tình trạng lập kế hoạch đầu tư công mà chưa có những căn cứ vững chắc và phải xem xét trách nhiệm của người đứng đầu. Xem xét kỹ những nội dung liên quan đến điều chỉnh vốn kéo dài dự án để đảm bảo không có việc đến năm 2024 là năm cuối nhiệm kỳ, khối lượng công việc rất lớn mà phải xử lý tình trạng vốn kéo dài.
Đối với UBND các địa phương, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy yêu cầu các địa phương phải tập trung giải quyết dứt điểm công tác GPMB, bàn giao mặt bằng đúng tiến độ để không gây trì trệ, trì hoãn việc triển khai trên công trường, dẫn đến các nhà thầu lợi dụng việc không có mặt bằng để kéo dài thời gian thi công và lợi dụng vốn ngân sách nhà nước ứng trước khi trúng thầu, sử dụng vốn sai mục đích.
Để không bị động trong thiếu nguồn vật liệu san lấp, UBND tỉnh xây dựng Đề án tổng thể đảm bảo nguồn vật liệu san lấp, đáp ứng nhu cầu trong khu vực công, khu vực tư và cho nhà dân. Đồng chí yêu cầu UBND tỉnh trên quy hoạch phải công khai minh bạch vấn đề này, hậu kiểm những giấy phép đã có mỏ đất, những chủ đầu tư, những người được giao mỏ mà gây khó khăn cho tình trạng thiếu đất. Từ đó tạo sự chủ động về nguồn cung giá cả, phát huy lợi thế của địa bàn.
Đồng thời yêu cầu các cơ quan chức năng có liên quan phải có trách nhiệm đối với lĩnh vực này; tăng cường giám sát của các cơ quan dân cử đối với lĩnh vực đầu tư công, không để lặp lại những sai phạm rất đáng tiếc đã từng xảy ra, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của địa bàn.
Giải pháp nào khắc phục những hạn chế, vướng mắc về quản lý đất đai và tài nguyên môi trường (TN&MT)?
Đại biểu Lê Cao Long (Tổ Cẩm Phả) chất vấn ông Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh: Qua nghiên cứu, nắm bắt, trong giai đoạn 2016-2021 HĐND tỉnh đã ban hành 21 nghị quyết để thông qua danh mục thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng rừng. Tuy nhiên, nhiều dự án không triển khai thực hiện quá 3 năm phải trình HĐND tỉnh ban hành các nghị quyết hủy bỏ đối với 137 dự án. Tại kỳ họp này, UBND tỉnh tiếp tục trình HĐND tỉnh hủy bỏ đối với 84 dự án, công trình. Điều đó cho thấy công tác quản lý nhà nước về đất đai sau khi được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất còn hạn chế.
Đề nghị Giám đốc Sở TN&MT cho biết với trách nhiệm của ngành khi chưa chủ động tham mưu trình HĐND tỉnh hủy bỏ đối với các dự án, công trình quá 3 năm chưa thực hiện, Sở đã có những giải pháp nào tham mưu cho UBND tỉnh để khắc phục những hạn chế nêu trên?
Chất vấn tại hội trường, Đại biểu Phạm Thành Trung (Tổ Uông Bí), nhấn mạnh: Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất là nhu cầu chính đáng của các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng để đáp ứng yêu cầu sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, nhiều cử tri phản ánh việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp, nhất là đất ở gặp rất nhiều khó khăn do thiếu thông tin minh bạch về hạn mức đất ở.
Đề nghị Giám đốc Sở TN&MT cho biết giải pháp của ngành trong việc cung cấp thông tin, xử lý hồ sơ, thông báo kết quả chuyển đổi mục đích sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân một cách khách quan, hiệu quả nhằm giảm thiểu những tiêu cực có thể xảy ra do việc giữ thông tin để gây khó dễ cho người dân.
Đại biểu Ngô Văn Vàng (Tổ Móng Cái) đề nghị Giám đốc Sở TN&MT cho biết: các giải pháp của ngành để đảm bảo môi trường cho người dân khi vẫn còn tồn tại các cơ sở tiểu thủ công nghiệp không phù hợp quy hoạch đô thị, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Bởi thực tế cho thấy, việc thực hiện Nghị quyết số 201/2019/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ di dời cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp quy hoạch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025 vẫn còn hạn chế.
Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Lê Cao Long, Tổ đại biểu Cẩm Phả liên quan thu hồi, hủy bỏ đối với công trình, dự án quá 3 năm chưa thực hiện, đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT cho biết: Việc rà soát trình HĐND tỉnh hủy bỏ việc làm thường xuyên theo quy định của Luật Đất đai. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận từ thực tế cho thấy, thời gian qua, trách nhiệm của địa phương và cơ quan quản lý chưa được thường xuyên, sâu sát, tồn tại nhiều công trình đã quá 3 năm nhưng chưa thu hồi. Do đó, thời gian tới, ngành sẽ tiếp tục nâng cao trách nhiệm trong việc tham mưu cho UBND tỉnh trình HĐND tỉnh hủy bỏ đối với các dự án, công trình quá 3 năm. Vì vậy, ngành sẽ thường xuyên phối hợp với đơn vị liên quan và địa phương thường xuyên rà soát, tham mưu nhằm tăng cường quản lý nhà nước, đảm bảo quyền lợi của người dân tại dự án.
Tại kỳ họp này, ngành đã tham mưu UBND tỉnh tiếp tục trình HĐND tỉnh hủy bỏ đối với 84 dự án, công trình quá 3 năm chưa thực hiện. Ngành sẽ tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh trình HĐND tỉnh kịp thời hủy bỏ các dự án, công trình nhằm hạn chế tối đa dự án quá 3 năm chưa thu hồi.
Trả lời nội dung chất vấn của đại biểu Ngô Văn Vàng, Tổ đại biểu TP Móng Cái, đồng chí Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho biết: Kết quả đánh giá trong 3 năm gần đây qua thông tin tổng hợp tại 11 điểm quan tắc môi trường tự động trên địa bàn tỉnh cho thấy số ngày có chất lượng môi trường tốt chiếm trên 90%, số ngày chất lượng môi trường trung bình 9% và số ngày có chất lượng môi trường kém chiếm 1%.
Hiện toàn tỉnh có 10 cụm công nghiệp được quy hoạch, có 5 cụm đã hoàn thành và 5 cụm vẫn đang trong thời gian đầu tư. Trong đó, 5 địa phương chưa có cụm công nghiệp gồm: Đầm Hà, Hải Hà, Bình Liêu, Cô Tô, Móng Cái, dẫn đến khó khăn trong việc di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.
Tham gia trả lời làm rõ thêm nội dung này, Giám đốc Sở Công Thương Nguyễn Thị Hiền cho biết Sở đã chủ trì, phối hợp cùng các sở, ngành, địa phương thực hiện báo cáo sơ kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 201/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch đô thị phải di dời trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, báo cáo UBND tỉnh tại Văn bản số 3231/BC-SCT ngày 30/10/2023.
Theo đó, toàn tỉnh có 2.361 cơ sở phải thực hiện di dời. Tuy nhiên, việc thực hiện di dời chưa đạt mục tiêu đề ra. Đến ngày 31/11/2023, toàn tỉnh đã di dời 527/2.361 cơ sở; tăng 89 cơ sở so với kỳ họp lần thứ 14 của HĐND tỉnh tại 4 địa phương, cụ thể: TP Hạ Long đã di dời 132/320 cơ sở; TP Cẩm Phả đã di dời 379/435 cơ sở; huyện Ba Chẽ đã di dời 14/46 cơ sở; TX Đông Triều đã di dời 2/816 cơ sở.
Trên thực tế, nguyên nhân của việc chậm di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư, đô thị được xác định là do lịch sử quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công tác quản lý của các địa phương chưa chặt chẽ, đã dẫn đến nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển trong khu dân cư, trước khi Nghị quyết 201 được ban hành. Một số địa phương chưa thực sự quyết liệt trong việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch đô thị phải di dời trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 theo Nghị quyết 201, sau khi được ban hành. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách chỉ tập trung tại địa phương có cụm công nghiệp được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật (TP Hạ Long, TP Cẩm Phả...); các địa phương còn lại chưa có quỹ đất là các cụm công nghiệp được đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh để phục vụ di dời.
Ngoài ra, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đa số có quy mô nhỏ theo hình thức hộ gia đình (kết hợp nơi ở và nơi sản xuất) do đó việc di dời vào cụm công nghiệp gặp nhiều khó khăn như: Cụm công nghiệp nằm cách xa địa bàn khu dân cư, việc tìm kiếm các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp gặp nhiều khó khăn (do vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi kéo dài,…).
Giám đốc Sở Công Thương cho biết, để đảm bảo mục tiêu đến ngày 31/12/2025 di dời xong các cơ sở, Sở đề nghị triển khai thực hiện các giải pháp. Trong đó, các địa phương chưa có cụm công nghiệp được thành lập cần tập trung triển khai thực hiện di dời đối với các cơ sở tự chuyển đổi ngành nghề; các cơ sở tự chấm dứt hoạt động sản xuất (Lý do: các đối tượng này không phải sử dụng quỹ đất).
Các địa phương có cụm công nghiệp đã được thành lập (thành phố Uông Bí, thị xã Quảng Yên, huyện Vân Đồn, huyện Tiên Yên…) cần khẩn trương hoàn thành GPMB bàn giao mặt bằng sạch cho chủ đầu tư hạ tầng; đôn đốc chủ đầu tư khẩn trương hoàn thiện đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp trên địa bàn theo đúng tiến độ; ưu tiên quỹ đất phục vụ di dời. Các địa phương chưa có cụm công nghiệp để thực hiện di dời: Căn cứ quy hoạch phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn được phê duyệt khẩn trương thu hút đầu tư, đầu tư phát triển hạ tầng các cụm công nghiệp làm cơ sở để thực hiện di dời trên địa bàn theo đúng kế hoạch, để hoàn thành mục tiêu Nghị quyết 201 đã đề ra đến năm 2025 hoàn thành việc di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp quy hoạch đô thị phải di dời trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Đồng thời, tăng cường công tác quản lý, có chế tài xử lý, không để phát sinh mới các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư. Giám đốc Sở Công Thương cũng đề nghị các địa phương chủ động phối hợp với Sở Công Thương, sở, ngành liên quan tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.
Trả lời chất vấn của đại biểu Phạm Thành Trung, ông Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh cho biết: Hiện nay Luật Đất đai hiện hành đã quy định rõ trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân. Trong đó không có quy định giao UBND cấp tỉnh quy định cụ thể về chuyển mục đích sử dụng đất. Luật cũng không quy định về hạn mức các hộ gia đình, cá nhân được phép chuyển đổi mục đích sử dụng mà chỉ quy định việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng cấp huyện và giao UBND cấp huyện, phòng tài nguyên môi trường cấp huyện thẩm tra, xác minh, thẩm định nhu cầu của các hộ gia đình, cá nhân.
Vấn đề như đại biểu Phạm Thành Trung đề cập cũng là vấn đề được rất nhiều địa phương nêu, vì về vấn đề chuyên môn, do văn bản pháp luật hiện nay chỉ đề cập: Phòng tài nguyên môi trường cấp huyện thẩm tra, xác minh, thẩm định mà ko có tiêu chí cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc khi thẩm định, có thể sẽ có sự chủ quan của cán bộ Phòng tài nguyên môi trường cấp huyện. Thời gian tới, sau khi Luật Đất đai được sửa đổi và các bộ, ngành chức năng sửa đổi Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT sẽ giải quyết những vấn đề còn tồn tại hạn chế.
Điều hành về nội dung nay, Chủ tọa kỳ họp trực tiếp thông tin, thông qua livestream trực tiếp trên fanpage của Trung tâm Truyền thông tỉnh, cử tri và nhân dân hết sức quan tâm đến vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là chuyển đổi chính đáng, chuyển nhượng thừa kế, tách khẩu tách thửa… phục vụ mục đích sử dụng của nhân dân.
Đại biểu Phạm Thành Trung tiếp tục chất vấn: Còn có trường hợp người dân khi có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhận được câu trả lời của chính quyền là đã hết hạn mức… Tức là việc cung cấp thông tin, xử lý hồ sơ, thông báo kết quả chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho các cá nhân, hộ gia đình còn chưa minh bạch. Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm rõ.
Theo dõi trên fanpage của Trung tâm Truyền thông tỉnh, nhiều cử tri cũng bày tỏ yêu cầu cần làm rõ vấn đề hạn mức chuyển mục đích sử dụng đất…
Qua định hướng của Chủ tọa, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm rõ 2 khái niệm “Công nhận hạn mức đất ở, giao đất ở” (có quy định rõ hạn mức, phải thực hiện theo quy định) và khái niệm “Chuyển mục đích sử dụng đất ở sang mục đích khác” (không quy định hạn mức, chỉ cần phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện). Tất cả những vấn đề này sẽ được quy định lại hết sức rõ ràng, cụ thể sau khi Luật Đất đai được sửa đổi, Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi Thông tư số 30 và UBND tỉnh sửa đổi Quyết định 39 về nội dung giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất…
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cũng cho biết thêm: Hằng năm, vào tháng 10, Sở có văn bản gửi các huyện xây dựng kế hoạch sử dụng đất năm tiếp theo, trong đó có thông tin cho người dân đăng ký nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Trên cơ sở đăng ký của người dân, các cơ quan, phòng ban cấp địa phương sẽ kiểm tra và đưa vào kế hoạch sử dụng của những năm tiếp theo. Việc làm này giúp đơn vị chức năng chủ động và sắp xếp, quy hoạch sử dụng đất cho phù hợp. Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị các địa phương bám sát quy trình kế hoạch sử dụng đất năm tiếp theo cho đầy đủ. Sở cũng sẽ tiếp thu và tăng cường đôn đốc, chỉ đạo đảm bảo chặt chẽ, đầy đủ.
Chất vấn Sở TN&MT tại hội trường, đại biểu Bùi Thị Hải, Tổ đại biểu Hạ Long nhấn mạnh: Qua tìm hiểu, ngày 28/10/2022, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 23/4/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, UBND tỉnh có nhận diện: Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển kinh tế biển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đặc biệt, trong mảng logistics, cảng biển, khai thác hải sản và phát triển du lịch biển đảo. Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế biển trong thu ngân sách và quy mô nền kinh tế của tỉnh chưa tương xứng với vị trí địa lý của một địa phương có 250km chiều dài bờ biển, 9/13 đơn vị cấp huyện ở ven biển. Vậy, ngành TN&MT đã có những giải pháp gì quản lý, khai thác, phát huy tài nguyên biển.
Trả lời chất vấn của đại biểu Bùi Thị Hải, Tổ Hạ Long, đồng chí Trần Như Long, Giám đốc Sở TN&MT cho biết: Thời gian qua, Sở TN&MT đã tích cực tham mưu cho UBND tỉnh chương trình hành động số 27-CTr/TW ngày 27/3/2019 thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành, tổng kết, đánh giá Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 23/4/2019 về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 nhằm xây dựng tỉnh Quảng Ninh phát triển trở thành một trong các trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Sở đã tham mưu xây dựng các quy hoạch về không gian biển, hành lang bảo vệ biển, bảo vệ tài nguyên khóang sản… tích hợp trong Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn đang ở bước đầu nên chưa có kết quả đánh giá. Song các giải pháp của ngành trong việc tham mưu cho UBND tỉnh nhằm phát huy tài nguyên biển đang đi đúng hướng và được triển khai mạnh mẽ.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh: Tăng cường quản lý, sử dụng bền vững, tiết kiệm tài nguyên đất đai
Chủ tọa kỳ họp nhấn mạnh: Lĩnh vực đất đai là nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững của địa phương. Đây cũng là lĩnh vực cử tri, nhân dân trong toàn tỉnh đặc biệt quan tâm.
Quảng Ninh đã có những chủ trương khẳng định quan điểm của tỉnh đối với việc quản lý, sử dụng bền vững, tiết kiệm tài nguyên đất đai để định hình không gian phát triển một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, 3 vùng động lực; thiết kế hệ thống hành lang giao thông, hành lang kinh tế, hành lang đô thị, tìm kiếm không gian phát triển mới theo hướng bền vững, tổ chức lại không gian phát triển. Đây là quan điểm chủ trương triết lý phát triển đã trở thành phương thức quản trị của tỉnh, mang lại những lợi ích thiết thực đã được thể thiện bằng những con số thống kê và trực quan sinh động. HĐND tỉnh cũng đã có nghị quyết về thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng đặc dụng.
Song, việc tổ chức thực hiện nghị quyết còn tồn tại, chủ tọa kỳ họp cho rằng: Hạn chế này được đại biểu HĐND tỉnh nêu ra tại phiên chất vấn là rất đúng và sát với tình hình thực tiễn. Tại kỳ họp này, HĐND tỉnh đang hoàn thiện báo cáo giám sát đối với chuyên đề này.
Đồng chí chỉ rõ về những hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực đất đai như: Sau khi ban hành nghị quyết HĐND, việc tổ chức thực hiện nghị quyết còn hạn chế, nhất là việc thực hiện chậm các thủ tục sau khi có nghị quyết của HĐND, dẫn tới quá hạn 3 năm và phải thu hồi. Từ đó, dẫn tới lãng phí về nguồn lực đất đai, làm cho hiệu quả quản lý Nhà nước giảm đi. Liên quan thông tin đến người dân nắm đầy đủ quyền, và nghĩa vụ đặc biệt là thông tin về hạn mức đất ở, công khai kế hoạch quy hoạch sử dụng đất có liên quan đến lợi ích của người dân… còn khó khăn. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên biển, trong đó có phát triển kinh tế biển còn hạn chế, chưa khai thác được hết.
Nguyên nhân của hạn chế do: Công tác lãnh đạo chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra giám sát, có phần trách nhiệm trong công tác tham mưu của ngành tài nguyên môi trường cấp tỉnh, cấp huyện, nhất là tham mưu đề xuất UBND báo cáo HĐND trong việc thông qua danh mục thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đất rừng, đất đặc dụng, đất phòng hộ. Sau khi có nghị quyết của HĐND tỉnh chưa thực hiện được kịp thời dẫn tới quá hạn 3 năm phải thu hồi chủ trương, phản ánh năng lực trong tổng hợp, thẩm định, tham mưu đề xuất còn hạn chế. Theo dõi về đất đai, biến động đất đai, việc chuyển rừng, chuyển đất lúa, thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan của một số dự án còn chậm, tình trạng phân khúc giữa các cấp. Vấn đề nổi lên gần đây là tính toán giá đất, còn nhiều vướng mắc.
Để công tác này đạt hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân, chủ tọa kỳ họp yêu cầu: UBND tỉnh tiếp tục lãnh đạo chỉ đạo điều hành quán triệt thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” và Nghị quyết số 10-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường (BVMT), phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước giai đoạn 2022-2030. Chỉ đạo giải quyết, khắc phục hạn chế đã nêu trong các kết luận, báo cáo, chỉ ra qua thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán đặc biệt là thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TU ngày 31/7/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra việc quản lý, sử dụng đất đai và đầu tư công.
Vừa kiểm soát chặt chẽ việc xác định giá đất, đấu giá đất, đấu thầu dự án nhưng cũng phải tập trung tháo gỡ cho khâu làm giá đất để thúc đẩy các dự án đầu tư công, đầu tư ngoài ngân sách cũng như những vấn đề liên quan đến lợi ích nhân dân, trong đó việc chuyển mục đích sử dụng đất, đất lúa, đất rừng; đánh giá chính xác định hiện trạng đất chưa sử dụng, công tác giao đất, giao rừng, cho thuê mặt đất, mặt nước, giao khu vực biển ở tất cả các địa phương để có kế hoạch tổng thể quản lý, sử dụng, bền vững, hiệu quả, hợp lý tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên mặt nước biển.
Đánh giá tình hình thực hiện các dự án đã được HĐND tỉnh đã thông qua, nhất là các dự án còn có tiềm ẩn để đề xuất với HĐND tỉnh thu hồi, tránh tình trạng lãng phí đất đai, gây khiếu kiện trong nhân dân, ảnh hưởng đến đời sống dân sinh.
Liên quan đến những vấn đề cử tri quan tâm đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất, qua phần trả lời chất vấn, HĐND tỉnh thống nhất đưa vào chương trình giám sát của HĐND tỉnh.
Về vấn đề di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu vực dân cư, một mặt tiếp tục quy hoạch, phát triển các cụm công nghiệp đúng tiến độ, đúng kế hoạch, sử dụng đất hiệu quả, không đầu cơ, một mặt phải tăng cường công tác quản lý nhà nước của ngành công thương, chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã.
Riêng về vấn đề phát triển kinh tế biển, tập trung các biện pháp để quản lý, phát triển bền vững ngành kinh tế biển, chú trọng phát triển kinh tế biển đi liền với bảo vệ tài nguyên môi trường biển, môi trường sinh thái, bảo tồn cảnh quan Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long để phát triển bền vững ngành du lịch, dịch vụ. Quảng Ninh sẽ không đánh đổi các vấn đề về văn hóa, môi trường, an sinh cho các vấn đề phát triển kinh tế "nóng". Bởi Quảng Ninh có vị trí rất quan trọng về an ninh, quốc phòng, những nội dung phát triển kinh tế biển phải gắn liền với việc bảo vệ môi trường biển, môi trường sinh thái, kỳ quan di sản mà còn gắn với an ninh trật tự, an ninh đối ngoại.
Cuối cùng vấn đề cử tri quan tâm nhất chính là đất ở cho người dân, phải rà soát kỹ các trường hợp nhân dân thực sự có nhu cầu an cư để an dân, chính quyền địa phương phải biết rõ và phải làm công khai minh bạch trong việc sử dụng kế hoạch chỉ tiêu hàng năm liên quan đến chuyển đổi từ đất lúa sang đất phi nông nghiệp, đất nông nghiệp sang đất ở, để đảm bảo người dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng theo đúng tinh thần trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh.
Những quy trình từ sở đến huyện phải đảm bảo việc người dân nắm rõ, để tạo thuận lợi nhất cho người dân. Đồng thời, cũng phải kiểm soát việc lợi dụng, vụ lợi, gây phiền nhiễu cho nhân dân, đặc biệt là hiện tượng sang tên đổi chủ trái phép luật, gây phức tạp tình hình, thất thu ngân sách, nảy sinh tiêu cực.
Đại biểu Nguyễn Chiến Thắng, Tổ đại biểu TX Đông Triều, nhấn mạnh: Việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư tại một số địa phương còn chậm so với yêu cầu; cơ sở vật chất ở một số trường học được đầu tư đã lâu, đến nay không đảm bảo về diện tích và thiếu các phòng bộ môn theo quy định. Tính đến tháng 11/2023, toàn tỉnh còn 171 trường phải công nhận lại trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm 27,4%; 61 trường chưa được công nhận đạt chuẩn quốc gia, chiếm 9,78%. Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của ngành?
Đại biểu Bùi Thị Thu Hà, Tổ đại biểu Cẩm Phả, cho rằng: Ngày 5/9/2023, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 38-CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030. Một trong những mục tiêu được đặt ra cho lĩnh vực Giáo dục của tỉnh tại Chỉ thị là: “Chậm nhất đến năm 2030 nằm trong nhóm 15 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về trình độ, chất lượng phát triển giáo dục, đào tạo”. Với trách nhiệm là người đứng đầu ngành Giáo dục, đại biểu đề nghị đồng chí Giám đốc Sở cho biết những thuận lợi, khó khăn của ngành để thực hiện mục tiêu nêu trên? Giải pháp trọng tâm của ngành trong thời gian tới?
Đại biểu Nguyễn Thị Hồng Quyên, Tổ Cẩm Phả, đề nghị đồng chí Giám đốc Sở GD&ĐT làm rõ một số kết quả nổi bật của ngành trong năm học vừa qua và theo đồng chí thì đâu là nguyên nhân để có được những kết quả như vậy. Bởi thời gian vừa qua, tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo và dành nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức song ngành Giáo dục tỉnh đã cố gắng trong triển khai hiệu quả các mục tiêu nhiệm vụ được giao và đạt được nhiều kết quả tích cực, chất lượng giáo dục được nâng cao.
Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Chiến Thắng (Tổ đại biểu Đông Triều), Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Nguyễn Thị Thúy khẳng định: Đúng như đại biểu phản ánh, đển nay còn 171 trường (27,4%) đã quá hạn công nhận lại; 61 trường (9,78%) chưa được công nhận; 8/14 trung tâm GDNN-GDTX chưa được đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục.
Chủ yếu do những nguyên nhân sau: Ở vùng thành thị số học sinh đông, quỹ đất hạn hẹp nên nhiều trường quá số lớp, nhiều lớp quá số học sinh theo quy định, trung bình ở khu vực thành thị tăng 7.000-10.000 học sinh/năm. Còn ở vùng miền núi, học sinh ít, phân tán, nhiều trường không đủ quy mô tối thiểu, số điểm trường vượt quy định. Trong khi đó, theo Thông tư 13/2020/TT- BGDĐT của Bộ GD&ĐT quy định mới về cơ sở vật chất thì số lượng, diện tích các hạng mục đều cao hơn trước. Khi thực hiện cải tạo, nâng cấp hạng mục cũ phải thực hiện theo Luật Đầu tư công do kinh phí chi thường xuyên chỉ được sửa chữa, bảo dưỡng theo quy định tại Thông tư 65/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính; khi phá dỡ để xây dựng mới thì chưa đủ điều kiện thanh lý tài sản theo Nghị định số 151/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
Cùng với những nguyên nhân khách quan thì còn có những nguyên nhân chủ quan như: Kế hoạch công nhận trường đạt chuẩn quốc gia của các địa phương không đồng bộ với kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất trường học; nhiều trường đề nghị công nhận nhưng chưa bổ sung cơ sở vật chất còn thiếu hoặc việc xây dựng chưa hoàn thành; một số địa phương tự cân đối còn khó khăn khi bố trí kinh phí. Một số địa phương còn khó khăn trong việc bổ sung quỹ đất để đảm bảo quy mô, diện tích theo quy định; trong việc sáp nhập các trường có quy mô nhỏ, dồn ghép các điểm trường. Tình trạng thiếu cán bộ quản lí, giáo viên, năng lực đội ngũ cán bộ quản lí hạn chế, nhiều trường một thời gian dài không có hiệu trưởng, hiệu phó.
Nhằm khắc phục tình trạng trên, tại phiên chất vấn, đồng chí Giám đốc Sở GD&ĐT cũng đã đề xuất một số giải pháp. Cụ thể là Sở sẽ tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp với các địa phương tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục, trường chuẩn quốc gia năm 2024, 2025; thành lập các đoàn đánh giá theo yêu cầu của địa phương. Trên cơ sở đó, đề nghị các địa phương tăng cường phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo để xây dựng kế hoạch khả thi, quan tâm quy hoạch bổ sung quỹ đất cho giáo dục; điều chỉnh quy mô các trường vượt quy định về số lớp, số học sinh; sáp nhập trường có quy mô nhỏ hơn quy định, dồn ghép để đảm bảo số điểm trường không vượt quy định.
Trên cơ sở định mức số lượng người làm việc được giao, các địa phương cũng cần chủ động tuyển dụng, hợp đồng để đảm bảo đủ giáo viên giảng dạy theo quy định; khẩn trương bổ nhiệm cán bộ quản lý cho các trường còn thiếu; tạo điều kiện cho giáo viên tham gia đào tạo để đạt chuẩn theo quy định.
Sở cũng đề nghị các địa phương tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục đối với việc đề xuất danh mục, số lượng đề nghị mua sắm thiết bị dạy học.
Trả lời nội dung chất vấn của đại biểu Bùi Thị Thu Hà (Tổ đại biểu TP Cẩm Phả), đồng chí Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết, so sánh với quy mô số lớp và định mức biên chế, năm học 2023-2024, toàn ngành giáo dục thiếu 2.579 người làm việc, trong đó thiếu 1.737 giáo viên, thiếu ở tất cả các địa phương, thiếu ở tất cả các cấp học. Đây là khó khăn rất lớn của ngành.
Trên cơ sở nhận diện những khó khăn này, trong thời gian tới, ngành sẽ tập trung vào 7 nhóm giải pháp. Cụ thể là đẩy mạnh công tác tuyên truyền; đổi mới công tác tham mưu; xây dựng, triển khai các đề án; đổi mới công tác chỉ đạo về chuyên môn; đẩy mạnh chuyển đổi số; đẩy mạnh xã hội hóa, đẩy mạnh tự chủ; tăng cường công tác thanh, kiểm tra.
Tuy nhiên sẽ tập trung tham mưu cho tỉnh ban hành 12 Nghị quyết, đề án, kế hoạch; xây dựng và tổ chức thành công Đề án phát triển và nâng cao chất lượng nhà giáo để bố trí đủ đội ngũ giáo viên và đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Tập trung công tác đổi mới chuyên môn, quản trị trường học gắn với chuyển đổi số trong các trường học; gắn trách nhiệm của nhà trường với công tác quản lý; gắn trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn với hiệu trưởng nhà trường. Lấy kết quả kiểm tra chuyên môn, kết quả thi hằng năm để đánh giá hiệu trưởng, đánh giá chất lượng nhà trường.
Ngành cũng sẽ tăng cường nâng tỷ lệ học 2 buổi/ngày của cấp tiểu học, phấn đấu đến năm 2025 đạt 100% các trường tiểu học tổ chức 2 buổi/ngày và khuyến khích các trường THCS, THPT tổ chức dạy học 2 buổi/ngày để nâng cao chất lượng giáo dục; đồng thời, sẽ khai thác tối đa ưu điểm CNTT; tập trung thanh tra, kiểm tra các cơ sở giáo dục tư thục, người đứng đầu các cơ sở giáo dục.
Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Hồng Quyên (Tổ đại biểu Cẩm Phả), đồng chí Giám đốc Sở GD&ĐT nhấn mạnh: Năm học 2022-2023, trong điều kiện đối mặt với nhiều khó khăn song bám sát chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Tỉnh ủy HĐND tỉnh, UBND tỉnh, ngành GD&ĐT đã phối hợp chặt chẽ triển khai hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Trong đó, duy trì và củng cố vững chắc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; xóa mù chữ ở mức độ 2 là mức cao nhất; phổ cập THCS đạt chuẩn mức độ 2 (trong đó có 8/13 địa phương đã đạt chuẩn mức độ 3). Chất lượng giáo dục đại trà được củng cố và phát triển, chất lượng giáo dục mũi nhọn bứt phá.
Quảng Ninh đạt 59 giải học sinh giỏi quốc gia cấp THPT, tăng 11 giải so với năm trước. Quy mô mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất được quan tâm và đầu tư xây dựng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh, học viên trong độ tuổi và thực hiện được nhiệm vụ đổi mới giáo dục. Tỷ lệ trường đạt chuẩn đến hết năm 2023 đạt trên 90%.
Qua công tác giám sát của HĐND tỉnh trong suốt thời gian qua và theo dõi ý kiến của cử tri và nhân dân, Chủ tọa Kỳ họp yêu cầu Giám đốc Sở GD&ĐT làm rõ vấn đề có hay không tình trạng dạy và học tin học “chay”, nhất là những trường học xa trung tâm, vùng sâu vùng xa. Cùng với đó là phản ánh về hiện trạng số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc còn thiếu và yếu.
Làm rõ thêm về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Thúy, Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết: Đây là những vấn đề đã nhiều lần được Sở GD&ĐT báo cáo trước UBND tỉnh. Theo đó, môn Tin học trước đây là môn học tự chọn, hiện tại là môn học bắt buộc. Vì vậy, để phục vụ các môn học bắt buộc, phải thực hiện quy trình tuyển giáo viên và mua sắm trang thiết bị. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị còn chậm, chưa đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ dạy và học. Chính vì vậy, việc dạy và học tin học “chay” hiện vẫn còn là vấn đề tồn tại, Sở sẽ tiếp tục phối hợp với các sở, ngành chức năng nỗ lực giải quyết vấn đề này.
Về vấn đề số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu, Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết: Thời gian qua, tỉnh, ngành Giáo dục và Đào tạo luôn chú trọng, quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ cho học sinh. Trong đó, tỉnh đã phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng giáo dục ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục phổ thông giai đoạn 2022-2025, đã đặt rõ các mục tiêu và có giải pháp thực hiện. Thời gian tới, ngành Giáo dục sẽ tích cực phối hợp với các cơ sở đào tạo, các trường đại học tăng cường đào tạo để có thể cung cấp đủ nhu cầu về đội ngũ giáo viên ngoại ngữ. Đồng thời tiếp tục đào tạo lại, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ hiện có trên địa bàn tỉnh.
Đối với nội dung chất vấn về bữa ăn bán trú trong các nhà trường, Giám đốc Sở GD&ĐT Nguyễn Thị Thúy cho biết: Đối với cấp học mầm non, bữa ăn bán trú là quy định bắt buộc, đối với một số trường Tiểu học và Trung học cơ sở tổ chức ăn bán trú cho học sinh đáp ứng nhu cầu học 2 buổi/ ngày theo nhu cầu, nguyện vọng của phụ huỵnh. Trước đây, các nhà trường căn cứ theo quy định của Sở về hướng dẫn thu chi đầu năm. Sau một thời gian thực hiện căn cứ vào quy định của Luật Đầu tư, Sở đã có văn bản hướng dẫn các đơn vị lựa chọn nhà thầu cung cấp các dịch vụ giáo dục theo quy định. Sở cũng tổ chức tập huấn cho các nhà trường thực hiện quy định này. Tuy nhiên hiện nay, đang có tình trạng một số đơn vị chuyển từ nhà trường hợp đồng sang phụ huynh học sinh đứng ra ký kết với đơn vị cung cấp. Việc chuyển giao này là trong giai đoạn các nhà trường tiến hành các thủ tục lựa chọn nhà thầu cung cấp, dẫn đến thời gian trống này phụ huynh tự đứng ra để cung cấp. Sở GĐ&ĐT đã chỉ đạo các nhà trường trong thời gian chưa hoàn thành thủ tục lựa chọn nhà thầu cung cấp thực phẩm, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để tăng cường quản lý về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ lựa chọn nhà thầu và thực hiện đầy đủ các quy định về đấu thầu nếu có khó khăn vướng mắc thì báo cáo theo phân cấp để được hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời.
Làm rõ thêm nội dung này, đồng chí Nguyễn Thị Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ y tế trường học, công tác đảm bảo ATTP, chăm sóc sức khỏe trẻ em, học sinh trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh luôn được quan tâm thường xuyên và triển khai nghiêm túc.
Dịch vụ đảm bảo suất ăn trong trường học là dịch vụ thiết yếu. Hiện nay, tỉnh đang có chính sách đảm bảo bữa ăn bán trú cho khoảng 5.000 học sinh. Tỉnh giao dự toán địa phương, các trường tổ chức, hiện công tác này đang được tổ chức và duy trì đảm bảo. Đối với hơn 300 trường tự tổ chức bữa ăn bán trú, việc thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, với mức thu được quy định cụ thể và đảm bảo thực hiện nghiêm yêu cầu về VSATTP.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh nghiêm túc tiếp thu ý kiến cử tri, nhân dân, tập trung rà soát lại tất cả các nội dung về đảm bảo bữa ăn bán trú được thực hiện theo đúng quy định và hướng dẫn cụ thể hơn nữa đối với các cơ sở giáo dục, để đảm bảo bữa ăn cho học sinh.
Chất vấn Giám đốc Sở GD&ĐT, đại biểu La Thị Thủy, Tổ đại biểu Tiên Yên, cho rằng: Bên cạnh một số trường ngoài công lập được đầu tư theo hướng chất lượng cao, vẫn còn rất nhiều trường đầu tư chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu. Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở cho biết thực trạng trên và giải pháp của ngành trong thời gian tới để phát triển hệ thống trường ngoài công lập chất lượng cao trên địa bàn tỉnh nhằm bảo đảm người học được hưởng dịch vụ giáo dục ngày càng tốt hơn.
Trả lời chất vấn của đại biểu, Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết: Hiện nay toàn tỉnh có 58 cơ sở giáo dục ngoài công lập (trường tư thục), chiếm 93% tổng số trường trên toàn tỉnh, số trẻ em học sinh theo học tại các có sở ngoài công lập khoảng trên 41.000 em, chiếm 12% tổng số trẻ em học sinh trên toàn tỉnh. Số cán bộ giáo viên tham gia chiếm khoảng 2.800 người, chiếm trên 12% số lượng giáo viên trong tỉnh.
So với các tỉnh, thành phố trong khu vực Vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành phố trong cả nước thì số lượng trường tư thục của tỉnh Quảng Ninh tương đối cao, đặc biệt là đối với bậc THPT. Trong 58 trường tư thục đã có 15 trường được công nhận đạt trường chuẩn quốc gia. Sự ra đời của các trường tư thục đã góp phần đa dạng hóa các loại hình giáo dục trên địa bàn, nâng cao chất lượng giáo dục cho tỉnh. Trong quá trình đầu tư, một số trường đã được các nhà đầu tư quan tâm đầu tư chất lượng bài bản, tạo được uy tín cho học sinh và nhân dân trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh một số trường có chất lượng, được đầu tư nghiêm túc, bài bản, nhiều trường tư thục chất lượng thấp chưa đáp ứng yêu cầu, ảnh hưởng xấu tới chất lượng giáo dục chung của tỉnh, gây ra sự mất công bằng trong giáo dục của tỉnh.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương của Trung ương, của tỉnh về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; nâng cao chất lượng giáo dục, tạo điều diện cho người học thụ hưởng chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn, thời gian qua, các địa phương, sở, ngành đã triển khai các giải pháp quan tâm đến công tác quy hoạch, công tác tuyển sinh, ban hành cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ cán bộ quản lý giáo viên; kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm… Để tiếp tục phát triển hệ thống cơ sở giáo dục ngoài công lập, thời gian tới, Sở GD&ĐT tiếp tục các giải pháp tham mưu cho tỉnh ban hành chính sách để phát triển cơ sở giáo dục đúng chất lượng; tăng cường kiểm tra, kiểm định đánh giá, hướng dẫn cơ sở giáo dục ngoài công lập nâng cao chất lượng
Đại biểu Vũ Đình Nhân, Tổ đại biểu Cẩm Phả cho biết: Qua báo cáo của các cơ quan chức năng, hiện nay các thủ đoạn tẩm ướp, pha trộn ma túy vào đồ uống, thực phẩm, nhất là thuốc lá điếu, thuốc lá điện tử có xu hướng diễn biến phức tạp đang len lỏi vào trường học, ngoài trường học gây ảnh hưởng xấu tới thanh thiếu niên, học sinh và ảnh hưởng tới môi trường học đường. Nhất là gần đây, xuất hiện một số ca ngộ độc thực phẩm liên quan đến trẻ em, học sinh tiểu học và THCS (tại Vân Đồn, Bình Liêu) do sử dụng một số loại kẹo không rõ nguồn gốc xuất xứ ngoài khu vực cổng trường học khiến cử tri càng băn khoăn, lo lắng.
Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết giải pháp cụ thể của ngành trong công tác phối hợp triển khai công tác phòng, chống ma túy trong cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới?
Trả lời câu hỏi trên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo khẳng định không chỉ cử tri, phụ huynh mà chính những người làm quản lý trong ngành Giáo dục cũng băn khản lo lắng trước tình trạng ma túy diễn ra trên địa bàn. Tác hại của ma túy là rất rõ, nhất là đối với các đối tượng là học sinh - đối tượng đang trong quá trình hình thành nhân cách.
Ý thức được vấn đề này, thời gian qua, ngành Giáo dục đã quan tâm chỉ đạo triển khai các giải pháp. Trong năm 2023, Sở đã ban hành 21 văn bản chỉ đạo về nội dung này, phối hợp với Công an tỉnh tổ chức tập huấn vào thời điểm đầu năm học; luôn chủ động phối hợp với các ngành, địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về các tác hại của ma túy và hướng dẫn cách phòng ngừa; phối hợp mật thiết với Công an tỉnh để đưa các cán bộ công an vào tuyên truyền trong các cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, ngành cũng chủ động chỉ đạo các cơ sở giáo dục đẩy mạnh tuyên truyền trong giờ chính khóa, ngoại khóa cho học sinh, cán bộ quản lý giáo viên.
Với những giải pháp cụ thể như vậy, thời gian qua cũng đã đạt một số kết quả nhất định. Thời gian tới, Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chủ động, tăng cường phối hợp với các sở, ban, ngành, địa phương tiếp tục triển khai các nhiệm vụ; chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường phối hợp với gia đình, tổ chức xã hội làm tốt công tác quản lý, phòng, chống ma túy trong trong học sinh.
Giải trình làm rõ ý kiến của chủ tọa và cử tri, đồng chí Nguyễn Thị Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, nhấn mạnh: Theo quy định của các Thông tư, biên chế giáo viên nhu cầu cần sử dụng 21.290 người, tổng người làm việc hưởng lương ngân sách được giao 19.378 người. Tuy nhiên, số giáo viên có mặt hiện nay của tỉnh là 18.711 người, như vậy còn thiếu 2.579 người. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, đáp ứng yêu cầu hiện nay, năm 2023, UBND tỉnh đã phê duyệt đề án tự chủ cho 181 trường đủ điều kiện với số người làm việc 8.196 người. Trong đó, số giáo viên hưởng lương từ ngân sách là 6.059 người, số còn lại do các địa phương và trường tự chủ. Do đó, các địa phương phải tổ chức thi tuyển giáo viên hợp đồng đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Chủ tịch UBND các địa phương quan tâm chỉ đạo tổ chức thi tuyển, Sở Nội vụ phải có hướng dẫn cụ thể.
Đối với việc mua sắm trang thiết bị giáo dục đáp ứng chương trình giáo dục THPT 2018 đây là vấn đề cử tri quan tâm đã được chất vấn và trả lời chất vấn. Năm 2020, Sở GD&ĐT đã thực hiện mua sắm được thiết bị lớp 6. Năm 2021, thực hiện phân cấp, Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm toàn diện quản lý cấp học THPT, các địa phương chịu trách nhiệm quản lý cấp học mầm non, TH và THCS. Do đó, việc mua sắm trang thiết bị giáo dục của cấp học mầm non, TH và THCS thuộc về Chủ tịch UBND các địa phương. Tuy nhiên, đến hết năm 2021, toàn tỉnh chỉ có 3 địa phương thực hiện được việc mua sắm, các địa phương còn lại chưa triển khai. Do đó, Chủ tịch UBND các địa phương cần có trách nhiệm trong việc mua sắm trang thiết bị, nhất là chưa mua và không mua.
Đến năm 2022, xét thấy đề nghị của UBND các địa phương, tỉnh đã thực hiện mua sắm tập trung nhằm đảm bảo đồng bộ, chất lượng, hiệu quả, UBND tỉnh đã bổ sung nhiệm vụ đấu thầu mua sắm thiết bị trường học cho Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, đến 20/10/2023, mới đấu thầu thành công. Hiện nay đã có 346 trường, đảm bảo 100% trường đăng ký nhu cầu đã thực hiện ký hợp đồng mua sắm với 32 tỷ đồng, trong khi đó tổng nhu cầu mua sắm hơn 100 tỷ đồng. Điều này đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.
Điều này cho thấy trách nhiệm của Chủ tịch UBND các địa phương trong tổng hợp chưa sát với thực tế, đồng thời phối hợp chưa chặt chẽ giữa ngành, địa phương liên quan.
UBND tỉnh đã tiến hành tổng kết, đánh giá về nhiệm vụ mua sắm này. Trên cơ sở đó, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Chủ tịch UBND các địa phương và UBND các địa phương kiểm điểm làm rõ trách nhiệm khi xây dựng dự toán, phối hợp Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh Quảng Ninh tiếp tục bổ sung nhu cầu mua sắm, đảm bảo hoàn thành mua sắm trong quý I/2024. Chủ tịch UBND tỉnh cũng yêu cầu nghiêm túc kiểm điểm đơn vị không đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.
Tiếp tục lấy giáo dục - đào tạo là một yếu tố đảm bảo sự bền vững và tăng trưởng trong dài hạn
Kết luận phần chất vấn của đại biểu, cử tri, nhân dân và phần trả lời chất vấn của Giám đốc Sở GD&ĐT về các nội dung liên quan đến việc đảm bảo điều kiện, nâng cao chất lượng dạy và học, chăm lo cho học sinh và giáo viên, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh: Thời gian qua, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, tỉnh đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới nhân tố con người. Trong 3 đột phá chiến lược, có tới 2 khâu đột phá liên quan đến nhân tố này: Đó là khâu đột phá về “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với tăng quy mô và chất lượng dân số”; “nâng cao chất lượng CBCCVC, người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Và khâu đột phá về “xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp khoảng cách vùng miền và chênh lệch vùng miền”. Cùng với đó là Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 30/10/2023 về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững.
Tỉnh cũng thể hiện sự quan tâm đặc biệt và nguồn lực rất lớn đầu tư chăm lo cho giáo dục, đào tạo và phát triển nhân tố con người, thể hiện qua rất nhiều chương trình, đề án, nghị quyết, kế hoạch… của các cấp. Lấy giáo dục và đào tạo là một yếu tố đảm bảo sự bền vững, tăng trưởng trong dài hạn.
Nhờ đó, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, tỷ lệ phổ cập giáo dục bậc tiểu học và THCS mức độ 2, mức độ 3… đều cao hơn trung bình cả nước; kết quả thi tốt nghiệp THPT – kết quả phản ánh quá trình học tập 12 năm của học sinh cũng tăng bậc so với năm học trước; cùng với đó là nhiều giải cấp quốc gia, quốc tế, các cuộc thi; giáo dục vùng khó có những bước tiến vượt bậc; cơ sở vật chất trường học, lớp học gắn với việc chăm lo cho học sinh và giáo viên ngày càng được thực hiện tốt...
Đặc biệt, trong các điều kiện khó khăn do đại dịch Covid-19, ngành Giáo dục đã thể hiện sự thích ứng linh hoạt, an toàn để thay đổi hình thức dạy, học, quản lý ngành giáo dục, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh; linh hoạt giữa hình thức học trực tiếp và trực tuyến… góp phần vào việc nâng cao chất lượng GD&ĐT trong suốt thời gian qua.
Trân trọng những cố gắng, nỗ lực, tâm huyết vì học sinh thân yêu của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và ghi nhận những thành tựu to lớn của ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh trong thời gian qua, tuy nhiên, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh vẫn nhận định, ngành GD&ĐT tỉnh sẽ có phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, như: Thách thức trong việc đưa nền giáo dục của 67 đơn vị miền núi, biên giới, hải đảo tiến lên ngang bằng với thành thị, với vùng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Thách thức trong việc tốc độ đô thị hóa cao nhưng phải đối mặt với yêu cầu của lộ trình giảm đơn vị sự nghiệp công lập và giảm số người hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập. Thách thức về vấn đề thiếu trang thiết bị, thiếu đội ngũ nhà giáo dạy ngoại ngữ và tin học ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Để thực hiện mục tiêu Quảng Ninh đạt top 15 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về trình độ, chất lượng phát triển giáo dục, đào tạo, Chủ tọa kỳ họp đề nghị: Sở GD&ĐT bám sát quan điểm của Đại hội XIII của Đảng; Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Chỉ thị 38 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường năng lực quản lý lãnh đạo trong nâng cao chất lượng giáo dục Quảng Ninh; tiếp tục quan tâm, tham mưu cho UBND tỉnh, làm nòng cốt tổ chức triển khai thực hiện tốt một số vấn đề trong công tác giáo dục. Về quan điểm, tiếp tục ưu tiên đầu tư cho giáo dục, con người, ưu tiên phát triển bền vững để đảm bảo lâu dài sự tăng trưởng kinh tế dựa trên yếu tố nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng KHCN, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Ngành Giáo dục tập trung đổi mới nâng cao chất lượng công tác quản lý, quản trị nhà trường, siết chặt quản lý chất lượng giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu tình hình mới, đây được xem là khâu đột phá. Gắn với quá trình chuyển đổi số toàn Quảng Ninh phát triển giáo dục thông minh mạnh mẽ hơn nữa. Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý từ tỉnh đến cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo, vùng nông thôn - đây là khâu then chốt đảm bảo sự lâu dài cho phát triển giáo dục đào tạo tỉnh Quảng Ninh.
Tỉnh Quảng Ninh kiên trì phương châm trường học thân thiện, trường học an toàn, trường học hạnh phúc, trường học thông minh, học sinh tích cực, thầy cô giáo mẫu mực về nhân cách, đạo đức, là tấm gương của sự tự học và sáng tạo.
Về nhiệm vụ, giải pháp, để đảm bảo cơ sở vật chất, cần phải bố trí nguồn lực đầu tư về cơ sở vật chất để đảm bảo đến năm 2024 có số trường đạt chuẩn quốc gia trên 91%. Đồng thời, chương trình đầu tư cơ sở vật theo hướng chất lượng cao tiếp tục thực hiện trên cơ sở kiểm soát tốt đầu ra, đảm bảo tiết kiệm, quy trình thủ tục chặt chẽ. Cần phải đề xuất có cơ chế chính sách để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo; tập trung tuyển đủ số lượng biên chế chưa tuyển.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục theo chủ trương của Đảng, của Trung ương, nhất là phát triển giáo dục ngoài công lập ở những nơi có điều kiện như đô thị, người dân có điều kiện về kinh tế trên tinh thần ưu tiên bố trí quỹ đất phù hợp, có lợi thế cạnh tranh để thu hút những trường ngoài công lập chất lượng cao.
Đồng thời nghiên cứu nhân rộng trường trọng điểm, trường chất lượng cao ở các huyện trong tất cả cấp học, nhất là ở địa bàn miền núi biên giới, hải đảo để tạo đột phá về trường mũi nhọn. Tăng cường công tác quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng giáo dục ở các cơ sở giáo dục ngoài công lập để đảm bảo các trường ngoài công lập có điều kiện phục vụ nhu cầu của người dân.
Sở Giáo dục và Đào tạo phải tăng cường công tác quản lý nhà nước, công tác thanh, kiểm tra trong thực hiện các quy chế, quy định về chuyên môn, quy chế quản lý nội bộ, thi cử, thu chi. Cùng với đó quan tâm đến mục đích sử dụng quỹ hội cha mẹ học sinh cho đúng đắn như kiến nghị của cử tri gửi về.
Đối với vấn đề tăng cường đảm bảo VSATTP trong các nhà trường có tổ chức cung cấp bữa ăn cho học sinh dưới tất các hình thức (bắt buộc, nguồn ngân sách tỉnh, tự nguyện phù hợp với quy định pháp luật), Chủ tọa kỳ họp đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo rà soát lại những bất cập đang nảy sinh trong thực tiễn quản lý tại mỗi cơ sở giáo dục. Làm rõ trách nhiệm của Sở GD&ĐT và người đứng đầu chính quyền cấp huyện. Đồng thời thiết kế quy trình quản lý, hướng dẫn hợp lý để đảm bảo không đẩy trách nhiệm này cho hội phụ huynh, không để nhà trường đứng đơn độc và gắn trách nhiệm của người đứng đầu với mục tiêu học sinh trên địa bàn tỉnh dù thụ hưởng chính sách hay phụ huynh đóng góp đều phải được thụ hưởng bữa ăn đảm bảo dinh dưỡng, tuyệt đối đảm bảo an toàn thực phẩm, thuận tiện nhất cho học sinh, cho cơ sở giáo dục để học sinh yên tâm đến trường.
Đối với công tác phòng chống ma túy ở trong học đường, xung quanh trường học, tỉnh đã rất quyết liệt. Tỉnh đã ban hành Chỉ thị 32 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường phòng chống, kiểm soát ma túy trong tình hình mới. Về cơ chế chính sách, HĐND tỉnh đã có nhiều nghị quyết rất căn cơ về vấn đề này. Việc đầu tiên phụ huynh phải nâng cao kiến thức; thứ hai là thầy cô và người đứng đầu các cơ sở giáo dục phải tăng cường công tác tuyên truyền; phải kiên quyết chống thẩm lậu ma túy vào trường học dưới mọi hình thức, kiên quyết không để xung quanh trường học tồn tại các tụ điểm tàng trữ, mua bán sử dụng chất ma túy dưới mọi hình thức.
Phải tập trung vào các giải pháp cụ thể sau: Một là tăng cường công tác tuyên truyền. Hai là tăng cường kiểm soát đầu vào (cửa khẩu, đường bộ, đường hàng không), có cơ chế kiểm soát xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh để đảm bảo không có nguồn ma túy thẩm lậu vào địa bàn. Trách nhiệm nội dung này thuộc về lực lượng biên phòng, thuế, hải quan, quản lý thị trường, cơ quan quản lý cửa khẩu và chính quyền địa phương biên giới.
Ngành Công Thương cũng phải tăng cường công tác thanh, kiểm tra về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Đặc biệt là tập trung một chiến dịch kiểm tra liên ngành tại các cổng trường học. Để từ nay đến Tết Nguyên đán chúng ta phải đảm bảo xung quanh trường học không chứa các chất gây nghiện mà trẻ em không biết. Về phía các địa phương mà trực tiếp là các xã, phường có thể thành lập đoàn kiểm tra liên ngành.
Gia tăng trách nhiệm của gia đình đối với các học sinh, tuyệt đối không để học sinh sử dụng chất cấm, chất gây nghiện như nước cấm, bóng cười, shisha, thuốc lá điện tử.
Thực hiện ký cam kết bằng văn bản giữa chính quyền địa phương cấp xã với tất cả các hộ dân kinh doanh cá thể mà có nguy cơ ma túy thẩm lậu, không bán hàng hóa không rõ nguồn gốc. Từ đó xây dựng một địa bàn xã hội, môi trường xã hội tuyệt đối trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn và văn minh và trong đó trường học sẽ là điểm trọng tâm để quan tâm.
Nhóm PV
Liên kết website
Ý kiến ()