Tất cả chuyên mục

Ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh với cách làm riêng cùng những nỗ lực rất đáng ghi nhận trong các hoạt động chuyển đổi số đã góp phần hiện đại hoá, nâng cao thu nhập cho những chủ thể sản xuất nông nghiệp là doanh nghiệp nông nghiệp và hộ nông dân trên địa bàn.
Ông Đồng Quảng Cường (xã Cẩm La, TX Quảng Yên) là chủ hộ chăn nuôi với số lượng 30.000 con vịt thương phẩm/năm và 7.000 con vịt đẻ lấy trứng/năm. Mặc dù số lượng đàn vịt nuôi lớn, nhưng ông Cường vẫn có quỹ thời gian rảnh rỗi để làm những công việc ngoài chuồng trại. Ông Cường cho biết: Tôi nuôi vịt thương phẩm trong chuồng lạnh khép kín, đồng nghĩa với việc làm chủ các thông số về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với sinh trưởng và phát triển của con vịt. Các khâu ăn, uống của đàn vịt được thực hiện tự động theo lập trình. Đối với đàn vịt đẻ lấy trứng, tôi cũng áp dụng quy trình nuôi trong chuồng lạnh như vịt thương phẩm, cộng thêm công nghệ ấp trứng tự động để cho ra sản phẩm trứng vịt lộn. Quan trọng là phần lớn những thông số sản xuất của các chuồng trại tôi đều cập nhật, tích hợp và điều chỉnh thông qua smartphone, nhờ đó ngay cả khi đi ăn sáng, café với bạn bè tôi cũng có thể xử lý được việc của trang trại.
Công ty TNHH Long Hải là doanh nghiệp KHCN chuyên sản xuất nấm ăn của tỉnh. Bắt kịp tiến trình chuyển đổi số, công ty đã nhanh chóng chuyển sang sản xuất theo dây chuyền tự động hoá và công nghệ sinh học trong nhà lạnh. Với công nghệ này, Công ty TNHH Long Hải kiểm soát mọi yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng theo tiêu chuẩn quốc tế, để cây nấm phát triển tối ưu; cấy giống nấm tự động bằng dịch thể, đảm bảo tính vô trùng, an toàn thực phẩm. Các hạ tầng liên quan đến sản xuất nấm như hệ thống phòng thí nghiệm, phòng khử trùng bằng tia cực tím, phòng máy tạo ozon, phòng nuôi sợi nấm, phòng thúc nấm, phòng hãm, phòng quả thể… đều đảm bảo các tiêu chuẩn hiện hành cao nhất. Hiện công ty có 50 nhà lạnh tiêu chuẩn quốc tế, mỗi năm cung ứng trên 600 tấn nấm ra thị trường, mang lại doanh thu, lợi nhuận rất đáng phấn khởi cho doanh nghiệp và người lao động.
Hiện phần lớn các nông hộ sản xuất, doanh nghiệp nông nghiệp của Quảng Ninh đều ít nhiều tiếp cận và ứng dụng KHCN, chuyển đổi số vào sản xuất. Riêng lĩnh vực thủy sản (lĩnh vực kinh tế chủ đạo của kinh tế nông nghiệp), hiện người dân và doanh nghiệp đã có những cải tiến về lồng nuôi (lồng nhựa tròn không dùng lưới lót), bè nuôi (bè dây) để nâng cao năng suất nuôi và thuận tiện trong thao tác thả giống, thu hoạch. Quảng Ninh đủ năng lực cung ứng nguồn tôm thẻ chân trắng giống chất lượng cao cho các cơ sở nuôi trên địa bàn tỉnh và một số tỉnh lân cận. Toàn tỉnh đang phổ biến mô hình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính; nuôi tôm trong bể nổi tròn; nuôi tôm 2, 3 giai đoạn ít thay nước; nuôi tôm trong ao đất bền vững; mô hình ứng dụng chế phẩm sinh học trong quản lý môi trường và dịch bệnh được áp dụng ở hầu hết cơ sở nuôi tôm…
Những doanh nghiệp đi đầu về nuôi tôm thẻ của Quảng Ninh đã bắt đầu ứng dụng công nghệ quan trắc môi trường tự động, quản lý quá trình sản xuất giống, nuôi thương phẩm... Nhiều công nghệ mới trong xử lý nước, nuôi cấy tảo, Artemia được ứng dụng trong sản xuất giống, góp phần nâng cao năng suất, sản lượng tôm giống.
Quảng Ninh hiện đang có 9 doanh nghiệp KHCN có sản phẩm liên quan đến ngành nông nghiệp và môi trường. Thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, các doanh nghiệp tiếp tục triển khai Hệ thống cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc thực phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn. Hiện nay đã cấp tài khoản vận hành cho 181 tài khoản của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh; cấp 1.267 mã QR truy xuất sản phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn; có 393 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, 100% sản phẩm đạt 3 sao trở lên đều thực hiện đăng ký mã QR hoặc mã vạch (http://qn.check.net.vn). Có 77 loại nhãn hiệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã đăng ký được bảo hộ, trong đó có 43 nhãn hiệu được chứng nhận và 34 nhãn hiệu tập thể.
Các chủ thể sản xuất nông nghiệp cũng đẩy mạnh ứng dụng các sàn giao dịch thương mại điện tử để giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục phát huy, nâng cao hiệu quả Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) để trở thành yếu tố trung tâm trong gắn kết phát triển kinh tế nông nghiệp với phát triển du lịch, dịch vụ, xây dựng thương hiệu, sản phẩm chủ lực của tỉnh.
Ý kiến ()