Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 16:00 (GMT +7)
Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 11/2023
Thứ 4, 06/12/2023 | 21:34:03 [GMT +7] A A
Chiều 6/12 tại Hà Nội, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ, chủ trì buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 11/2023.
Thông tin về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2023 diễn ra cùng ngày dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết: Tại Phiên họp, Chính phủ tập trung thảo luận về: tình hình KTXH tháng 11 và 11 tháng năm 2023; tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 CTMTQG; tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công cùng một số nội dung quan trọng khác; đề ra các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá thời gian tới.
Thảo luận tại Phiên họp, các thành viên Chính phủ thống nhất nhận định: trong điều kiện có rất nhiều khó khăn, thách thức từ cả bên trong và bên ngoài, nhất là tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp, khó lường, xung đột tại Ukraina, Dải Gaza kéo dài, đầu tư, thương mại toàn cầu suy giảm, đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng.... Song dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự đồng lòng, tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp và người dân; sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, tình hình KTXH tháng 11 và 11 tháng tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Nổi bật là:
- Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng 0,25% so với tháng 10; bình quân 11 tháng tăng 3,22% (thấp hơn nhiều mục tiêu khoảng 4,5% theo Nghị quyết của Quốc hội). Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất huy động, cho vay tiếp tục xu hướng giảm. Thu ngân sách nhà nước 11 tháng đạt gần 95% dự toán trong khi đã miễn, giảm, gia hạn trên 172 nghìn tỷ đồng thuế, phí, tiền sử dụng đất (trong đó miễn, giảm khoảng 65 nghìn tỷ đồng), ước cả năm vượt mục tiêu đã đề ra (trong đó chủ yếu thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh).
Xuất nhập khẩu tiếp tục đà tăng trở lại. Trong tháng 11, xuất khẩu tăng 6,7% so với cùng kỳ; xuất siêu 1,28 tỷ USD. Tính chung 11 tháng, xuất siêu 25,83 tỷ USD (cùng kỳ năm trước là 10,3 tỷ USD). An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu 11 tháng gần 7,4 triệu tấn gạo, kim ngạch đạt gần 4,16 tỷ USD, tăng 16,1% về lượng và 35,1% về giá trị so với cùng kỳ). Cân đối cung cầu lao động cơ bản được bảo đảm.
Sản xuất công nghiệp phục hồi tích cực, tiếp tục xu hướng tháng sau tốt hơn tháng trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11 tăng 3% so với tháng 10, tăng 5,5% so với cùng kỳ; tính chung 11 tháng tăng 1%. Trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 6,3%; nhiều địa bàn công nghiệp trọng điểm tiếp tục phục hồi hoặc duy trì đà tăng tích cực (Chỉ số IIP tháng 11 so với tháng trước của Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 9,9%; Bình Dương tăng 6,3%; Vĩnh Phúc tăng 5,6%; Vĩnh Long tăng 4,2%; Quảng Ninh và TPHCM cùng tăng 3,8%...).
Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định và tăng trưởng, tiếp tục là bệ đỡ của nền kinh tế; xuất khẩu nông sản 11 tháng đạt 47,84 tỷ USD; trong đó rau quả đạt trên 5 tỷ USD, tăng gần 72%. Khu vực dịch vụ tiếp tục duy trì đà tăng khá; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 tăng 1,4% so với tháng 10; tính chung 11 tháng tăng 9,6%. Khách quốc tế tháng 11 đạt hơn 1,2 triệu lượt, tăng 10,9% so với tháng trước; tính chung 11 tháng đạt hơn 11,2 triệu lượt, gấp 3,8 lần cùng kỳ năm trước.
Đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả tích cực, tiếp tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vốn FDI đăng ký và thực hiện đều cao nhất kể từ năm 2020 đến nay. Tổng vốn FDI đăng ký 11 tháng đạt 28,85 tỷ USD, tăng 14,8% so cùng kỳ. Vốn FDI thực hiện đạt 20,25 tỷ USD, tăng 2,9%. Giải ngân vốn đầu tư công 11 tháng ước đạt 65,1% kế hoạch, cao hơn 6,8% so cùng kỳ (58,33%), số tuyệt đối cao hơn gần 123 nghìn tỷ đồng.
Phát triển DN tích cực hơn. Trong tháng 11 có khoảng 14.300 DN đăng ký thành lập mới, tăng 19,5% so cùng kỳ, số vốn đăng ký tăng 47%. Tính chung 11 tháng có trên 201.500 DN gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng 3,5% (10 tháng tăng 2,9%). Công tác quy hoạch được đẩy nhanh, 108/111 quy hoạch đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội được chú trọng. Các chỉ tiêu xã hội cơ bản hoàn thành, nhiều chỉ tiêu vượt mức kế hoạch. Trong tháng 11, nhiều sự kiện chính trị, xã hội quan trọng được tổ chức thành công. Tình hình chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm; phòng chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, nhiều hoạt động đối ngoại cấp cao diễn ra liên tục thành công, tạo cơ hội mới cho đầu tư, thương mại, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.
Các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá tốt và khá tích cực về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức như: (1) Sức ép lạm phát trên thế giới còn cao, đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất toàn cầu; (2) Thị trường BĐS, trái phiếu DN còn nhiều khó khăn, vướng mắc; (3) Tiếp cận vốn tín dụng, hấp thụ vốn của nền kinh tế còn khó khăn; (3) Một số cơ chế, chính sách, quy định, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn vướng mắc, chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân; (5) Sản xuất kinh doanh, đời sống một bộ phận người dân còn gặp khó khăn; thiên tai, bão lũ, thời tiết cực đoan, sạt lở đất, bờ sông, bờ biển… diễn biến khó lường.
Về phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, sau khi phân tích tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: Các cấp, các ngành, các địa phương phải nỗ lực, cố gắng hơn nữa trong việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực; phấn đấu, quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất để đạt được mục tiêu là kết quả năm 2023 phải tốt hơn năm 2022.
Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương:
- Tập trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm, đồng bộ, hiệu quả, toàn diện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương; các Luật, Nghị quyết về kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN, đầu tư công năm 2024... đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6.
- Tiếp tục thực hiện quyết liệt nhiệm vụ ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu chưa đạt trong kế hoạch năm 2023. Xử lý hiệu quả các tồn tại, vướng mắc để phục hồi và phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh, bền vững các thị trường, nhất là BĐS, trái phiếu DN, chứng khoán, lao động..., bảo đảm công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình.
Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính - NSNN; phấn đấu tăng thu, kiểm soát chi, giảm chi thường xuyên, tiết kiệm triệt để chi NSNN.
Tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng. Đầu tư cần tập trung, tạo thuận lợi thu hút, giải ngân các nguồn lực đầu tư của toàn xã hội; quyết liệt xử lý vướng mắc, tích cực hỗ trợ đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư; tăng cường xúc tiến, thu hút dự án FDI có quy mô lớn, công nghệ cao. Đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là hàng nông, lâm, thủy sản sang các thị trường lớn, tiềm năng. Về tiêu dùng, cần khai thác hiệu quả thị trường trong nước, thực hiện kích cầu tiêu dùng dịp cuối năm và Tết Nguyên đán; đẩy mạnh cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", các chương trình, hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, kết nối cung cầu...
Đặc biệt cần lưu ý thúc đẩy 03 động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế. Thứ nhất, tăng cường liên kết giữa các vùng, liên kết cả nước, liên kết trong nước và quốc tế. Thứ hai, tập trung phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo cho các ngành, lĩnh vực mới nổi như: sản xuất chip, hydrogen, chống biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, kinh tế tuần hoàn. Thứ ba, củng cố thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường mới, như: Trung Đông, châu Phi và Nam Mỹ.
- Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh phê duyệt các quy hoạch. Kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia; phấn đấu đạt mục tiêu giải ngân ít nhất 95% kế hoạch vốn năm 2023. Phát huy hiệu quả các Hội đồng điều phối vùng, thúc đẩy liên kết vùng gắn với xúc tiến đầu tư.
- Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Tiếp tục thực hiện quyết liệt, tổng thể và đồng bộ các chính sách, giải pháp về thuế, phí, tiền tệ, thương mại, đầu tư... đã ban hành. Kiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh; nâng cao chất lượng dịch vụ công, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Tập trung phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực chủ yếu. Về công nghiệp, tập trung thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chế tạo; đẩy nhanh tiến độ các dự án quy mô lớn, công nghệ cao, có tính lan tỏa mạnh mẽ; chủ động triển khai các giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng; kiên quyết không để thiếu điện, xăng dầu. Về nông nghiệp, tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực, thực phẩm, phát triển công nghiệp chế biến nông sản và các mặt hàng nông sản chất lượng, giá trị gia tăng cao; tận dụng tốt cơ hội xuất khẩu nông sản, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Về dịch vụ, du lịch, quan tâm phát triển mạnh các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao; đẩy mạnh thu hút du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xúc tiến du lịch các thị trường trọng điểm; tiếp tục nghiên cứu mở rộng chính sách miễn visa đối với một số nước.
- Chú trọng các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Làm tốt công tác an sinh xã hội, bảo đảm đời sống Nhân dân; bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Theo dõi, nắm bắt tình hình lao động, việc làm; có giải pháp hỗ trợ kịp thời, ổn định đời sống người lao động; tăng cường kết nối cung cầu lao động, hỗ trợ người lao động chuyển đổi nghề bền vững. Củng cố, nâng cao chất lượng y tế cơ sở, y tế dự phòng; giải quyết tình trạng thiếu thuốc, vật tư, thiết bị y tế, bảo đảm vaccine cho Chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Đẩy mạnh sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Trong đó, chú trọng làm tốt công tác tiếp công dân, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo từ cấp cơ sở. Quyết liệt thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
- Củng cố quốc phòng, an ninh; giữ vững trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh, chính trị trên địa bàn cả nước. Triển khai chu đáo, thực chất, hiệu quả các hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế.
Tăng cường công tác thông tin, truyền thông, nhất là truyền thông chính sách; đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc, chống phá Đảng, Nhà nước, xử lý nghiêm các sai phạm. Trong công tác thông tin, truyền thông, tinh thần là lấy cái tích cực, đẩy lùi cái tiêu cực.
Từ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương. Yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành với quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, phát huy hơn nữa vai trò người đứng đầu, phấn đấu thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
PV Văn Kiên (báo Tiền Phong): Vừa qua có đấu giá 3 mỏ cát ở Hà Nội tăng giá gấp trăm lần so với giá khởi điểm. Sau khi có kết quả này, Thủ tướng đã chỉ đạo yêu cầu kiểm tra, rà soát toàn bộ ngăn chặn nguy cơ lợi dụng đấu giá để gây nhiễu loạn thị trường và có thể là trục lợi. Xin hỏi Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Hà Minh Hải, đến nay kết quả rà soát như thế nào? Có hay không việc đánh giá trữ lượng không chính xác? Lãnh đạo Thành phố có thể lý giải thêm vì sao giá trúng lại cao gấp hàng trăm lần so với giá khởi điểm như vậy?
Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Hà Minh Hải: Thực hiện Công điện 1087 ngày 11/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ, UBND TP. Hà Nội đã có chỉ đạo tại Văn bản 3861 giao cho Sở TN&MT chủ trì và trực tiếp thực hiện cùng với Sở Tư pháp, Tài chính, Công Thương, Công an Thành phố và các đơn vị có liên quan rà soát ngay toàn bộ quá trình khảo sát, đánh giá chất lượng mỏ, lập hồ sơ và tổ chức đấu giá khai thác 3 mỏ: Liên Mạc, Châu Sơn và Tây Đằng-Minh Châu theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chặt chẽ và đúng chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 17/11/2023, Sở TN&MT đã có văn bản 8902 báo cáo UBND TP. Hà Nội kết quả. Do đây là nội dung lớn, quan trọng và có liên quan đến nhiều lĩnh vực, đơn vị nên công tác điều tra cần có thời gian tổng hợp, nghiên cứu, xem xét chi tiết, cụ thể để đánh giá cụ thể nội dung theo chỉ đạo của Thủ tướng về đánh giá chất lượng cho đến lập hồ sơ tổ chức đấu giá, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định.
Ngày 21/11/2023, UBND TP. Hà Nội đã có Văn bản 13806 truyền đạt ý kiến của lãnh đạo UBND TP. Hà Nội tiếp tục nội dung này, giao cho Thanh tra Thành phố chủ trì, tiếp tục cùng với Sở TN&MT, các Sở Tài chính, Công Thương, Tư pháp, Công an Thành phố kiểm tra, rà soát và đánh giá cụ thể nội dung theo báo cáo của Sở TN&MT và theo đúng nội dung Công điện của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 29/11, Văn phòng UBND TP. Hà Nội tiếp tục có văn bản truyền đạt ý kiến của lãnh đạo UBND Thành phố, yêu cầu Thanh tra Thành phố, Sở TN&MT khẩn trương báo cáo kết quả thực hiện với Thành phố tại nội dung Thông báo 13860 và đặc biệt là các nội dung Thành phố đã chỉ đạo theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng. Nội dung này hiện nay Thanh tra Thành phố và các đơn vị đang chủ động để có báo cáo. Thời hạn thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng là trước ngày 20/11/2023 nhưng do cần có thời gian để tổng hợp, xem xét chi tiết cụ thể, bảo đảm báo cáo của Thủ tướng theo đúng tinh thần chỉ đạo, UBND TP. Hà Nội ngày 29/11/2023 cũng đã có Văn bản 4030 báo cáo tình hình đến thời điểm triển khai thực hiện, và kiến nghị Thủ tướng cho phép UBND TP. Hà Nội tiếp tục báo cáo trước ngày 15/12/2023.
Hiện nay Văn phòng UB đã đôn đốc các đơn vị phải có báo cáo kịp thời với Thủ tướng trước ngày 15/12. Khi có kết quả báo cáo Thủ tướng, UBND TP. Hà Nội sẽ tiếp tục cung cấp thông tin và có báo cáo cụ thể về nội dung này theo chỉ đạo.
PV Ngọc An (báo Tuổi trẻ TPHCM): Tình trạng thiếu vaccine tiêm chủng mở rộng đang diễn ra trên cả nước. Có thông tin cho rằng Bộ Tài chính chậm trình ngân sách để mua vaccine và có vướng mắc về đấu thầu. Vậy đề nghị Bộ Y tế làm rõ nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng này?
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương: Chương trình Tiêm chủng mở rộng do Nhà nước chi trả toàn bộ được triển khai trên toàn quốc từ năm 1985 nhằm cung cấp dịch vụ tiêm chủng miễn phí cho trẻ em dưới 1 tuổi. Số loại vaccine tăng dần theo thời gian, từ 6 vaccine thiết yếu năm 1985 tới nay đã có hơn 10 loại vaccine phòng các bệnh truyền nhiễm phổ biến, nguy hiểm được cung cấp miễn phí cho trẻ em và phụ nữ có thai triển khai trong tiêm chủng mở rộng trên toàn quốc.
Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã quyết liệt chỉ đạo các đơn vị, địa phương, phối hợp Bộ, ban ngành liên quan, đẩy mạnh các hoạt động đảm bảo nguồn cung vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng.
Tuy nhiên, năm 2023, thực hiện Luật Ngân sách, các địa phương chủ động thực hiện các thủ tục mua sắm vaccine từ ngân sách của địa phương. Sau khi thực hiện Luật Ngân sách này rất nhiều địa phương đã báo cáo các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Trước yêu cầu thực tiễn và thực hiện Nghị quyết 99 của Quốc hội ngày 24/6/2023 về việc tiếp tục bố trí ngân sách trung ương để tiếp tục thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia quốc gia đảm bảo thống nhất, hiệu quả trong cả nước, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính và bộ ngành liên quan báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 10/7/2023, Quyết định số 931/QĐ-TTg ngày 05/8/2023 giao kinh phí để Bộ Y tế thực hiện mua tập trung các loại vaccine.
Theo đó, đối với vaccine có khả năng sản xuất trong nước (10 loại vaccine), Bộ Y tế đã rà soát các quy định của pháp luật và thực hiện mua theo hình thức đặt hàng. Đến nay, Bộ Y tế đã gửi Bộ Tài chính xem xét, phê duyệt phương án giá tối đa, trên cơ sở đó Bộ Y tế sẽ phê duyệt phương án giá cụ thể (dự kiến hoàn thành trong tháng 12/2023) và giao Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương ký hợp đồng với các đơn vị sản xuất vaccine để tiếp nhận vaccine và thực hiện phân bổ ngay cho các địa phương.
Đối với vaccine 5 trong 1 phải nhập khẩu: Bộ Y tế đã giao cho Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương thực hiện mua sắm theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước theo quy định của Luật đấu thầu.
Trong quá trình chờ hoàn tất các thủ tục mua sắm, Bộ Y tế cũng đã chủ động tìm nguồn viện trợ, tài trợ vaccine từ các tổ chức Quốc tế, trong nước cho Chương trình Tiêm chủng mở rộng.
Cuối tháng 8/2023, được sự viện trợ, tài trợ từ WHO, UNICEF và các tổ chức khác, Bộ Y tế đã tiếp nhận 258.000 liều vaccine 5 trong 1.
Bộ Y tế (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) đã phân bổ số vaccine này và đã hướng dẫn địa phương thực hiện tiêm vaccine cho trẻ trong tiêm chủng mở rộng trong tháng 9/10/2023.
Chính phủ Australia sẽ viện trợ cho Việt Nam 490.600 liều vaccine 5 trong 1 dự kiến vaccine sẽ về Việt Nam trong tháng 12/2023.
Hiện nay, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Chương trình tiêm chủng mở rộng đã có văn bản hướng dẫn các tỉnh về việc tiêm bổ sung, tiêm vét cho các địa phương.
Ngoài ra, Bộ Y tế đã và đang chỉ đạo các đơn vị liên quan thực hiện việc lập kế hoạch cung ứng vaccine trong năm 2024 kịp thời đảm bảo nguồn cung vaccie; chỉ đạo các địa phương chủ động trong giám sát, phát hiện dịch và đáp ứng và triển khai các biện pháp về tiêm chủng vaccine cho đối tượng nguy cơ cao tại ổ dịch để khoanh vùng, không để dịch bệnh lây lan.
Để giải quyết căn cơ, lâu dài Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sửa đổi Nghị định số 104/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về hoạt động tiêm chủng, trong đó cho phép bố trí ngân sách Trung ương để đảm báo kinh phí mua vaccine cho chương trình tiêm chủng mở rộng.
PV Xuân Trường (báo điện tử Tổ quốc): Quan điểm của Bộ Y tế liên quan đến chuyển tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và các giải pháp trong thời gian tới như thế nào?
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương: Sau 15 năm ban hành Luật Bảo hiểm y tế, chúng ta đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) đến nay đã đạt gần 91 triệu người với khoảng 92% dân số. Số lượt khám chữa bệnh bảo hiểm cũng đã gia tăng với 150,5 triệu lượt trong năm 2022. Bên cạnh đó, quyền lợi của người tham gia BHYT cũng ngày càng được mở rộng. Mỗi năm quỹ BHYT chi trả khoảng 110 nghìn tỷ đồng cho khám chữa bệnh. Nguồn kinh phí do quỹ BHYT chi trả cho chi phí khám chữa bệnh đang chiếm tỉ trọng lớn trong nguồn thu của bệnh viện. Chất lượng dịch vụ y tế đang từng bước được nâng cao.
Để đạt được kết quả này, một trong những yếu tố quan trọng là việc tổ chức đăng ký khám bệnh chữa bệnh BHYT ban đầu và chuyển tuyến khám chữa bệnh, quy định phân tuyến chuyên môn, chuyển tuyến và giấy chuyển tuyến có ý nghĩa quan trọng góp phần bảo đảm ổn định cân đối và bền vững hệ thống khám chữa bệnh cũng như là công tác khám chữa bệnh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc bất cập như quy định đăng ký khám chữa bệnh ban đầu còn nặng về hành chính; thủ tục chuyển tuyến, cấp giấy chuyển tuyến còn có tình trạng gây phiền hà cho người bệnh, thậm chí có trường hợp phát sinh tiêu cực xin cho, giữ bệnh nhân lại… gây bức xúc trong dư luận.
Từ ngày 1/1/2016 việc thực hiện thông tuyến khám chữa bệnh giữa trạm y tế tuyến xã với phòng khám đa khoa của bệnh viện tuyến huyện và từ 1/1/2021 việc thông tuyến tỉnh trên toàn quốc đối với khám chữa bệnh nội trú cũng tạo một số vướng mắc liên quan đến tuyến, vượt tuyến, chuyển tuyến, gây ra tình trạng quá tải trở lại ở tuyến trên và giảm tỉ lệ khám chữa bệnh ở y tế cơ sở.
Để đảm bảo chất lượng phục vụ người bệnh cao nhất, Bộ Y tế đã và đang tăng cường chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực và mở rộng phạm vi chi trả BHYT cho tuyến dưới; áp dụng hình thức giấy chuyển tuyến điện tử để việc cấp giấy chuyển tuyến được thuận tiện, nhanh chóng; lập hồ sơ quản lý sức khỏe người dân và mở rộng mô hình bác sĩ y học gia đình; nâng cao chất lượng y tế cơ sở.
Thứ hai là tiếp tục mở rộng danh mục và thời gian cấp phát thuốc BHYT cho tuyến xã đối với một số bệnh mãn tính; cải thiện quy trình cấp giấy chuyển tuyến có thời hạn một năm cho một số bệnh mãn tính; cân đối cải cách các quy định chuyển tuyến.
Thứ ba là tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động về chỉ đạo tuyến, bệnh viện vệ tinh, luân phiên luân chuyển cán bộ, đào tạo chuyển giao kĩ thuật để tăng cường năng lực và trình độ chuyên môn của tuyến dưới, đảm bảo thực hiện tốt các kỹ thuật theo phân tuyến chuyên môn kĩ thuật.
Thứ tư là tăng cường hoạt động nâng cao chất lượng bệnh viện như là cùng cố xây dựng hệ thống tổ chức quản lý chất lượng bệnh viện; đào tạo kiểm tra giám sát thực hiện quản lý chất lượng bệnh viện.
Cuối cùng là tiếp tục đẩy mạnh hoạt động quản lý chất lượng xét nghiệm và xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá kiểm định chất lượng lâm sàng giúp nâng cao chất lượng chuyên môn, rút ngắn thời gian điều trị, tiết kiệm chi phí cũng như là thời gian của người bệnh.
PV Ngọc An (báo Tuổi trẻ TPHCM): Bộ Công Thương đang xây dựng biểu giá bán lẻ điện bậc thang và rút ngắn từ 6 bậc xuống 5 bậc. Tuy nhiên, qua thực hiện biểu giá bậc thang đã biểu lộ bất cập, dùng nhiều trả nhiều cũng chưa phản ánh hết chi phí của người sử dụng và có ý kiến cho rằng nên xây dựng giá hai thành phần. Xin cho biết vì sao tiếp tục sử dụng biểu giá bậc thang mà chưa xây dựng biểu giá hai thành phần? Biểu giá 5 bậc thang này có ưu, nhược điểm gì? Với biểu giá bán lẻ cho khách hàng sản xuất, việc áp dụng giờ cao điểm, thấp điểm hiện nay có phù hợp không khi nhiều ngành sản xuất đã thay đổi rất nhiều so với trước đây?
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải: Điện năng là một hàng hóa đặc biệt, việc sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, việc lưu trữ điện năng rất đắt và tốn kém. Khi huy động các nhà máy điện phát điện, về nguyên tắc ngành điện sẽ huy động các nhà máy điện có giá rẻ phát điện trước, nhà máy điện có giá đắt phát điện sau, cho đến khi đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng điện của khách hàng. Hiện nay, nhằm khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, rất nhiều nước trên thế giới, trong đó có các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc hay các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines… đều áp dụng giá điện cho mục đích sinh hoạt theo các bậc với giá điện của bậc thang sau cao hơn so với bậc thang trước tương tự như Việt Nam đang tiến hành.
Việc thiết kế giá bán lẻ điện cho sinh hoạt theo các bậc phù hợp với các mức sử dụng điện khác nhau của các hộ dân với giá điện của các bậc tăng dần nhằm khuyến khích các hộ dân sử dụng điện hiệu quả, tiết kiệm. Thực tế áp dụng trong những năm gần đây cho thấy việc áp dụng giá bán điện sinh hoạt theo các bậc là đơn giản trong áp dụng, nhưng vẫn đạt được mục tiêu khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả và tương đối phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay ở nước ta.
Về giá điện hai thành phần, kinh nghiệm áp dụng tại các nước trên thế giới cho thấy giá bán điện hai thành phần gồm giá công suất (tính theo kW) và giá điện năng (tính theo kWh) chỉ áp dụng cho các khách hàng sử dụng điện cho mục đích sản xuất và kinh doanh. Cơ chế giá này không áp dụng cho các khách hàng sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt.
Do đây là cơ chế mới, cần có nghiên cứu, thử nghiệm kỹ lưỡng, tránh tác động quá lớn tới các nhóm khách hàng sử dụng điện. Trong thời gian tới ,căn cứ đặc điểm sử dụng điện của khách hàng sử dụng điện tại Việt Nam và trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm áp dụng tại các nước trên thế giới, Bộ Công Thương sẽ nghiên cứu và đề xuất áp dụng thử nghiệm giá bán điện 2 thành phần gồm giá công suất và giá điện năng cho một số nhóm khách hàng sử dụng điện cho mục đích sản xuất để có cơ sở đánh giá tác động đến giá bán lẻ điện bình quân cũng như đến chi phí sản xuất của khách hàng sử dụng điện.
Về ưu, nhược điểm của biểu giá điện sinh hoạt 5 bậc, trước tiên là đơn giản, người dân dễ hiểu do giảm từ 6 bậc như cơ cấu biểu giá điện hiện nay xuống còn 5 bậc giá điện. Việc ghép các bậc lại với nhau để tăng khoảng cách mức tiêu thụ tiêu thụ điện giữa các bậc và nới rộng khoảng cách mức tiêu thụ của bậc cao hơn nhằm phản ánh tình hình thực tế tiêu thụ điện và khuyến khích việc sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả hơn; đồng thời hạn chế được một phần việc tiền điện phải trả tăng cao trong những tháng đổi mùa.
Số tiền ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội không thay đổi so với khi áp dụng cơ cấu biểu giá điện hiện hành là 6 bậc.
Mức tăng giá giữa các bậc là tương đối hợp lý, chênh lệch giữa bậc đầu và bậc cuối là 2 lần, phù hợp khi so sánh với xu thế chung của các nước trên thế giới, như tại Nam California (Mỹ) mức chênh lệch giữa bậc đầu và bậc cuối cùng là 2,2 lần; Hàn Quốc là 3 lần; Lào là 2,88 lần; Thái Lan là 1,65 lần.
Các hộ có mức sử dụng điện từ 710 kWh trở xuống (chiếm khoảng 98% số hộ) sẽ có tiền điện phải trả giảm đi so với cách tính cũ là 6 bậc.
Về nhược điểm, tiền điện của các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện cao từ 711 kWh/tháng trở lên (chiếm khoảng 2% số hộ) phải trả tăng thêm. Như vậy, tổng thể của phương pháp tính vẫn giữ nguyên, chỉ là có sự tăng lên giảm xuống tương ứng giữa các thành phần khách hàng sử dụng điện.
Về việc áp dụng giá giờ cao điểm, thấp điểm, hiện nay, việc áp dụng giá điện theo thời gian sử dụng điện trong ngày cho nhóm khách hàng sử dụng điện mục đích sản xuất, kinh doanh hiện nay vẫn còn phù hợp do:
Thứ nhất, đặc điểm của hệ thống điện luôn có sự chênh lệch giữa cao điểm và thấp điểm của biểu đồ phụ tải. Sự chênh lệch lớn giữa giờ cao điểm và thấp điểm làm cho hệ thống điện phải có dự phòng lớn. Một số nhà máy điện được đầu tư chỉ cho vận hành cao điểm có số giờ vận hành ít nên giá rất cao, việc điều hành hệ thống điện rất khó khăn, làm gia tăng tổn thất điện năng, tạo ra áp lực vốn đầu tư rất lớn để xây dựng nguồn điện mới chạy cao điểm, tính kinh tế toàn hệ thống giảm thấp.
Biện pháp áp dụng giá điện theo giờ bình thường, cao điểm và thấp điểm đã được áp dụng tại rất nhiều nước trên thế giới để giảm bớt nhu cầu phụ tải đỉnh của hệ thống, điều chỉnh biểu đồ phụ tải sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, đem lại lợi ích cho vận hành hệ thống điện và nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, trong các giờ cao điểm, để đảm bảo đủ công suất, hệ thống điện quốc gia phải huy động các nhà máy tua bin khí chạy dầu hoặc nhà máy chạy dầu có giá phát điện rất cao. Vì vậy, giá phát điện là cao nhất và giá bán lẻ điện cũng sẽ là cao nhất vào giờ cao điểm hệ thống. Để phản ánh đúng thực tế chi phí sản xuất điện, biểu giá điện vào các giờ cao điểm cần phải cao hơn giá giờ bình thường hoặc giá giờ thấp điểm. Ngoài ra, việc áp dụng biểu giá bán lẻ điện theo thời gian sử dụng trong ngày nhằm khuyến khích các khách hàng tiết kiệm chi phí dùng điện bằng cách dịch chuyển một phần những phụ tải không cần thiết từ giờ cao điểm sang giờ thấp điểm hay giờ bình thường, giảm nhu cầu phụ tải toàn hệ thống trong các giờ cao điểm, góp phần giảm áp lực vốn đầu tư xây dựng nguồn mới.
Nếu không áp dụng giá cao điểm vào những giờ cao điểm của hệ thống, nhu cầu công suất của hệ thống sẽ còn tăng cao hơn nữa và sẽ dẫn tới khó khăn trong việc cung cấp điện giờ cao điểm.
Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy việc áp dụng giá điện theo khung thời gian sử dụng điện trong ngày là phù hợp trong giai đoạn hiện nay để góp phần tối ưu vận hành hệ thống và đảm bảo khuyến khích các hộ sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.
PV Vũ Viết Tuân (báo điện tử Vnexpress): Xin cho biết quan điểm về đề xuất đưa học thêm, dạy thêm vào ngành nghề kinh doanh có điều kiện vì đa số giáo viên dạy thêm hiện nay nhỏ lẻ?
Vừa qua xảy ra vụ việc 1 nhóm học sinh ép cô giáo vào tường để văng tục chửi bậy ở Tuyên Quang. Bộ GD&ĐT nhìn nhận sự việc này như thế nào và xử lý thế nào để các vụ việc tương tự trong thời gian tới không xảy ra nữa?
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn: Ngày 16/5/2012, Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 17). Việc ban hành Thông tư 17 ở thời điểm năm 2012 dựa trên cơ sở pháp lý là dịch vụ tổ chức dạy thêm, học thêm được đưa vào danh mục trong Luật Đầu tư là một trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Chính vì vậy, Thông tư 17 mới có cơ sở để quy định điều kiện về tổ chức dạy thêm học thêm. Ví dụ như điều kiện tổ chức dạy thêm học thêm ngoài nhà trường: Đối với các cơ sở và tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường thì phải có những cam kết với Ủy ban nhân dân các cấp từ cấp phường, xã cho đến cấp quận, huyện để đảm bảo yêu cầu về việc tổ chức dạy thêm học thêm, công khai về tổ chức, địa điểm, mức phí, đội ngũ… Thông tư 17 cũng có các điều khoản quy định đối với người dạy thêm, đối với người đứng ra tổ chức dạy thêm, học thêm, điều kiện về cơ sở vật chất... vì đây là loại hình rất đặc biệt, tác động đến học sinh. Nhưng sau này, dạy thêm, học thêm được đưa khỏi danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư và vì thế Thông tư 17 phải bãi bỏ những điều khoản, quy định tương ứng. Trên thực tế, khi bãi bỏ đã có những vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý đối với việc dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường tại các địa phương.
Do đó, Bộ GD&ĐT tiếp tục đề xuất đưa dạy thêm, học thêm vào danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Bộ GD&ĐT đã 2 lần có công văn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất nội dung này. Nếu đưa dịch vụ tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm vào ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Bộ GD&ĐT sẽ sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư 17 hiện hành. Trong đó, sẽ quy định cụ thể những điều kiện tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường; đưa dạy thêm, học thêm vào khuôn khổ pháp lý, đồng thời ngăn ngừa những trường hợp dạy thêm, học thêm không đúng theo nguyện vọng, mong muốn của học sinh.
Vấn đề thứ hai liên quan đến vụ việc vừa rồi, ngay ngày hôm qua Bộ đã có công văn gửi về UBND tỉnh Tuyên Quang đề nghị, yêu cầu UBND tỉnh phải tiếp tục chỉ đạo để xác định rõ vụ việc. Vụ việc rất nghiêm trọng, việc này không thể chấp nhận được. UBND tỉnh chỉ đạo Sở GD&ĐT và nhà trường trước tiên làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm các bên liên quan một cách khách quan, thấu đáo. Trên cơ sở đó phải có những biện pháp để xử lý nghiêm, những gì là trách nhiệm của giáo viên, trách nhiệm liên quan đến nhà trường, lãnh đạo nhà trường, những gì liên quan đến học sinh, trách nhiệm của phụ huynh. Phải xem xét tổng thể để có những biện pháp xử lý vướng mắc, cần thiết phải chấn chỉnh và rút kinh nghiệm sâu sắc việc này.
Vấn đề thứ hai quan trọng hơn, là ngoài sự việc này còn những sự việc khác chúng ta đã chứng kiến trong thời gian qua. Có những việc giống nhau về mặt hiện tượng nhưng cũng có những việc khác, vậy bản chất là như thế nào? Vấn đề bạo lực học đường là vấn đề chung mà chúng ta phải quan tâm. Theo tôi từ những nguyên nhân diễn ra vụ việc này nhưng những vụ việc khác, Bộ đã có những biện pháp. Biện pháp thứ nhất liên quan đến giáo dục. Thứ hai là quản lý. Biện pháp kỷ luật là đối với một vụ việc cụ thể nhưng về lâu dài, biện pháp căn cơ chính là giáo dục và quản lý.
Trước hết việc liên quan đến giáo dục ấy thì phải xem đội ngũ giáo viên. Chúng tôi luôn bảo vệ các nhà giáo nhưng cũng phải nhìn lại các nhà giáo và đội ngũ giáo viên từ đào tạo, bồi dưỡng đến quá trình sử dụng, tuyển dụng. Đánh giá cả về chuyên môn và phẩm chất, những kỹ năng xử lý, cả giáo viên môn học và giáo viên chủ nhiệm. Công tác giáo dục tuyên truyền học sinh trong nhà trường thực hiện như thế nào. Bộ đã có văn bản hướng dẫn đầy đủ nhưng công tác triển khai cụ thể, năng lực, kỹ năng của từng nhà giáo như thế nào thì chúng ta phải rà soát đánh giá.
Thứ hai là đánh giá hiệu quả của việc dạy và học. Liên quan đến tăng cường giáo dục đạo đức, kỷ luật… đều có văn bản hằng năm, đều có kế hoạch nhưng cần đánh giá hiệu quả của từng trường, từng lớp như thế nào. Việc tuyên truyền giáo dục học sinh không chỉ đánh giá hiệu quả mà còn đánh giá việc học sinh chấp hành như thế nào, cần theo dõi thường xuyên đối với học sinh. Đối với nhà trường, cần thường xuyên đánh giá việc quản lý. Chúng tôi cho rằng để một vụ việc xảy ra như thế dẫn đến rất nhiều hậu quả nên phải ngăn chặn, phát hiện sớm những nguyên nhân sâu xa trong quan hệ thầy trò, trong tư tưởng đạo đức, trong lớp như thế nào, diễn biến tâm lý… để có thể hạn chế ngay từ đầu. Quản lý nhà trường, quản lý lớp phải nắm được những cái đó để thực hiện.
Thứ ba là về phía phụ huynh. Giáo dục không chỉ trong nhà trường mà phải có mối quan hệ chặt chẽ với phụ huynh. Phụ huynh và gia đình cũng phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhà trường. Xem xét mối quan hệ cụ thể giữa phụ huynh và gia đình rất quan trọng.
Cuối cùng là trách nhiệm của toàn xã hội. Bạo lực xảy ra trong trường nhưng cũng là hiện tượng xã hội. Giáo dục học sinh cũng không chỉ trong nhà trường, trong gia đình mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Văn hóa của chúng ta trong xã hội, từ văn hóa giao thông cho đến tất cả cách ứng xử, văn hóa trên không gian mạng… đều cần làm tốt. Đây cũng là việc rất quan trọng tác động đến học sinh, sinh viên.
Chúng tôi cho rằng các biện pháp cần toàn diện. Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương, các cơ sở đào tạo làm tốt việc đào tạo đội ngũ giáo viên, rồi các chương trình giảng dạy và đặc biệt là tư tưởng đạo đức, quản lý nhà nước và việc phối hợp với phụ huynh.
PV Đinh Nhung (tạp chí Mekong ASEAN): Quốc hội đã quyết định mục tiêu tăng trưởng là 6-6,5%, mục tiêu này cho thấy sự đánh giá lạc quan về triển vọng phục hồi kinh tế. Vậy, lãnh đạo Bộ KH&ĐT đánh giá đâu là những điểm sáng có thể nhìn thấy rõ và đâu là trụ lực chính để chúng ta hoàn thành mục tiêu này năm 2024?
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương: Kỳ họp thứ 6 Quốc hội vừa mới kết thúc, và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 103 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Trong đó Nghị quyết đã nêu rõ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong năm 2024. Một trong những mục tiêu rất quan trọng của Nghị quyết 103 là mục tiêu về tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết của Quốc hội đề ra mục tiêu tăng trưởng năm 2024 là 6-6,5% trên tinh thần quán triệt vững các kết luận của Trung ương Đảng, cũng như trên cơ sở phân tích cụ thể các thuận lợi, khó khăn và khả năng đạt được mục tiêu năm 2024.
Để thực hiện các mục tiêu đề ra, Nghị quyết 103 của Quốc hội cũng đã nêu 12 nhóm giải pháp toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế để thực hiện tất cả các mục tiêu, nhiệm vụ. Trong đó để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5%, ngay từ nhiệm vụ số 1, giải pháp số 1 của Nghị quyết số 103 cũng đã tập trung vào các giải pháp này. Trước đây chúng ta thường đặt mục tiêu, nhiệm vụ là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trước, sau đó mới đến các giải pháp khác. Trong năm 2024, Quốc hội đã quyết nghị ưu tiên tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trước nội dung ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó cho thấy quyết tâm của toàn hệ thống cũng như của Chính phủ về việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, phục hồi và bù đắp lại những hạn chế, giảm sút trước đây do tác động khách quan của đại dịch COVID-19 cũng như các tác động của kinh tế thế giới trong năm 2023.
Với các nhiệm vụ như vậy, trong công tác triển khai, thực hiện Nghị quyết 103 của Quốc hội cũng như chỉ đạo của Thủ tướng, của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan xây dựng Nghị quyết số 01 của Chính phủ để phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng trong năm 2024. Dự thảo Nghị quyết đã hoàn thành và trong phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày hôm nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Dự thảo đầu tiên của Nghị quyết 01 năm 2024 để các thành viên Chính phủ cho ý kiến, sau đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp thu, hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết này để trình phiên họp Chính phủ với các địa phương vào đầu tháng 1/2024, tổng kết lại năm 2023 và triển khai năm 2024. Đây là Nghị quyết trọng tâm, xương sống trong các chỉ đạo điều hành của Chính phủ cho cả năm 2024. Trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh các giải pháp tập trung phục vụ mục tiêu ưu tiên là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2024 và phấn đấu đạt được mục tiêu 6-6,5%.
Trong Dự thảo Nghị quyết 01, chủ đề điều hành năm 2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất một nội dung quan trọng với Chính phủ là có phương châm năm 2024 phát triển bứt phá, tận dụng được các cơ hội. Như chúng ta biết, cuối năm 2023, chúng ta có được rất nhiều cơ hội thông qua các thành quả của hoạt động chỉ đạo, điều hành, đặc biệt là hoạt động đối ngoại, đem lại ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Tôi xin chia sẻ về cơ hội để chúng ta tăng tốc, phát triển bứt phá trong năm 2024. Các kết quả cuối năm 2023 hiện nay cơ bản rất tích cực, mặc dù không đạt những mục tiêu cao như chúng ta kỳ vọng hay đặt ra ban đầu, nhưng trong bối cảnh quốc tế, khu vực như hiện nay thì kết quả như vậy là rất tích cực, tạo đà tốt cho việc triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024.
Thứ hai, qua rà soát các động lực tăng trưởng kinh tế cho thấy cả 3 mặt về đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng đều có cơ hội tăng trưởng tốt trong năm 2024. Về xuất khẩu, chúng ta đang có đà phục hồi tháng sau tốt hơn tháng trước, dần dần lấy lại đà tăng trưởng xuất khẩu. Đối với tiêu dùng, hiện nay tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã trên 9%, tiệm cận mức 2 con số. Đấy cũng là đà tốt. Và trong lĩnh vực đầu tư, một lĩnh vực hết sức quan trọng, cả 3 mặt: đầu tư nhà nước, đầu tư FDI, đầu tư tư nhân, cơ hội đầu tư trong năm 2024 là khá tốt, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài, do các kết quả của ngoại giao kinh tế năm 2023 đem lại, đặc biệt là đầu tư trong lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo, chip bán dẫn, ngành nghề khác phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư tư nhân mặc dù năm 2023 gặp rất nhiều khó khăn, tác động của các bất cập thị trường trong nước như thị trường vốn, trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán, nhưng qua đánh giá sơ bộ cho thấy năm 2024, khả năng phục hồi và hoạt động trở lại của các thị trường này khá tốt. Như vậy, kích thích được đầu tư trong nước gắn với phục hồi thị trường xuất khẩu có thể khởi sắc hơn. Rà soát cho thấy khả năng thực hiện mục tiêu 6-6,5%, mặc dù tương đương với mức bình quân chung mục tiêu đặt ra của cả 5 năm 2021-2025, nhưng chúng tôi xác định đây là một nhiệm vụ khó, bởi năm 2024 vẫn còn tiếp tục các khó khăn mà đến nay chưa thể dự báo được. Với những gì chúng tôi đang đề xuất trong Dự thảo Nghị quyết 01, chúng tôi rất kỳ vọng phấn đấu hoàn thành được mục tiêu Quốc hội đề ra.
Theo Baochinhphu.vn
Liên kết website
Ý kiến ()