Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 16:39 (GMT +7)
Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023
Thứ 3, 04/07/2023 | 21:51:56 [GMT +7] A A
Chiều 04/7, tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ tổ chức họp báo Chính phủ thường kỳ, cung cấp thông tin về tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 và nửa đầu năm 2023.
Buổi họp báo Chính phủ diễn ra dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ. Cùng dự có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành và đông đảo phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương.
Tại họp báo, thông tin về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023 và Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương diễn ra cùng ngày dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Người phát ngôn của Chính phủ cho biết: Phiên họp nhằm đánh giá, thảo luận về tình hình KTXH tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023, triển khai kết quả Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ, các Nghị quyết của Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5; tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG); phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và siết chặt kỷ luật, kỷ cương và một số nội dung quan trọng khác.
Phiên họp diễn ra trong bối cảnh đất nước ta vừa đi qua 1/2 chặng đường của năm 2023 - một chặng đường mà đất nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới với nhiều yếu tố bất lợi mà theo Thủ tướng Phạm Minh Chính khái quát là nổi lên 6 cơn gió ngược: Một là tăng trưởng thế giới suy giảm, lạm phát đang ở mức cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; Hai là hậu quả Covid-19 còn kéo dài; Ba là cạnh tranh địa chiến lược, chủ nghĩa bảo hộ, sự phân tách, phân mảnh, thiếu liên kết chặt chẽ, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy cục bộ; Bốn là các cuộc xung đột đe dọa an ninh lương thực, năng lượng toàn cầu; Năm là các nước đang phát triển có khả năng thích ứng, sức chống chịu hạn chế trước những cú sốc từ bên ngoài; Sáu là biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh phức tạp, khó lường, gây hậu quả nặng nề. Tình hình trong nước khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi do nước ta có quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng thích ứng còn hạn chế, nhất là những vấn đề nổi lên phát sinh đột xuất. Nền kinh tế của nước ta chịu tác động kép từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm, bộc lộ rõ hơn trong khó khăn.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã bám sát và tập trung chỉ đạo các bộ, các ngành, các địa phương triển khai quyết liệt Nghị quyết Đảng lần thứ XIII, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và đúng phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả".
Trong 6 tháng đầu năm, Chính phủ đã tổ chức nhiều cuộc họp, hội nghị, tham vấn ý kiến nhiều chuyên gia, nhà khoa học; ban hành 66 văn bản quy phạm, 106 Nghị quyết, trên 829 Quyết định cá biệt, 41 Công điện, 22 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Trọng tâm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành là: (1) Chuẩn bị chu đáo, phục vụ tốt Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ và Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV. (2) Tập trung rà soát, hoàn thiện quy định pháp luật, cơ chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 25 tổ công tác do các thành viên Chính phủ làm việc trực tiếp với tất cả các địa phương; đã xử lý 300/1.000 kiến nghị và đang tiếp tục xem xét, xử lý đối với trên 700 kiến nghị còn lại. (3) Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. (4) Chỉ đạo NHNN 4 lần giảm lãi suất điều hành; giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tăng dư nợ tín dụng, khả năng tiếp cận tín dụng; cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ, mua lại trái phiếu DN. (5) Gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất, miễn giảm thuế, phí, lệ phí (với tổng quy mô khoảng 200 nghìn tỷ đồng). (6) Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các thị trường trái phiếu DN, BĐS. (7) Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; hỗ trợ DN phục hồi nhanh, phát triển bền vững. (8) Xử lý vướng mắc về mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế. (9) Tiếp tục tổ chức các Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về 6 vùng KTXH trên cả nước. (10) Thúc đẩy mạnh mẽ công tác quy hoạch, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, du lịch, ngoại giao kinh tế, cải cách thủ tục hành chính...
Nhìn chung, các nhiệm vụ, giải pháp đề ra khá đồng bộ, toàn diện, đúng và trúng, sát thực tiễn, được Nhân dân, DN, các tổ chức quốc tế đánh giá cao và đã có hiệu quả rõ nét với nhiều số liệu tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau hiệu quả hơn quý trước. Trong đó, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế, an sinh xã hội, đời sống nhân dân được bảo đảm; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; giữ gìn được môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước. Cụ thể:
(1) Lạm phát tiếp tục xu hướng giảm dần. Tăng trưởng phục hồi: GDP quý II tăng 4,14%, cao hơn mức tăng của quý I (3,32%), tính chung 6 tháng tăng 3,72%. Thị trường tiền tệ, tỉ giá cơ bản ổn định; lãi suất tiền gửi bình quân còn 5,8%/năm (giảm 0,7% so với cuối năm 2022), lãi suất cho vay bình quân còn 8,9%/năm (giảm 1%). XNK có xu hướng tăng trở lại: Tháng 6: XK tăng 4,5%, nhập khẩu tăng 2,6% so với tháng 5, xuất siêu 2,59 tỷ USD; Quý II: XK tăng 2,9%, NK tăng 2,6% so với quý I; Tính chung 6 tháng xuất siêu 12,25 tỷ USD. Thu chi NSNN bảo đảm tiến độ, thu đủ chi: Thu NSNN 6 tháng 876 nghìn tỷ đồng, đạt 54% dự toán năm.
(2) Các ngành, lĩnh vực chủ yếu phục hồi tốt
- Nông nghiệp tiếp tục là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế; 6 tháng xuất khẩu 4,27 triệu tấn gạo, tổng giá trị nông sản xuất khẩu đạt 24,6 tỷ USD.
- Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trở lại: Quý II tăng 1,56% (quý I giảm 0,75%); tính chung 6 tháng tăng 0,44% so với cùng kỳ.
- Khu vực dịch vụ giữ mức tăng cao: tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng tăng 10,9% so với cùng kỳ. Thu hút khách quốc tế tháng 6 tháng đạt 5,6 triệu lượt, gấp 9,3 lần cùng kỳ.
(3) Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục tăng, quý II cao hơn quý I.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý II tăng 5,5% (quý I tăng 3,7%); tính chung 6 tháng tăng 4,7%.
- Giải ngân vốn đầu tư công 6 tháng đạt 216 nghìn tỷ đồng, bằng 30,49% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ (27,75%) và số tuyệt đối cao hơn khoảng 65 nghìn tỷ đồng.
- Vốn FDI thực hiện đạt 10,2 tỷ USD, tăng 0,5% so với cùng kỳ.
(4) Trong 6 tháng, có 37.700 DN quay trở lại hoạt động, dẫn đến tổng số có 113.600 DN gia nhập thị trường, cao hơn so với 100.000 DN rút lui khỏi thị trường.
(5) Các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp tục được chú trọng; đời sống của người dân tiếp tục được cải thiện
(6) Tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm.
(7) Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh, góp phần làm trong sạch bộ máy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, Đảng viên.
(8) Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, nhất là đối ngoại cấp cao, ngoại giao kinh tế, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được củng cố, nâng lên.
Thảo luận tại phiên họp, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các địa phương thống nhất nhận định, trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, thách thức, những thành tựu, kết quả nêu trên là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội, các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự đồng tình, ủng hộ của người dân, doanh nghiệp; sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế...
Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, các thành viên Chính phủ cũng thẳng thắn đánh giá, nước ta còn không ít tồn tại, khó khăn, thách thức phải đối mặt, cần xử lý, trong đó nổi lên là: Tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm thấp hơn kịch bản đề ra (3,72%), trong đó 4 địa phương tăng trưởng âm; Lạm phát có xu hướng giảm nhưng vẫn chịu nhiều sức ép; Điều hành chính sách tiền tệ trong nước khó khăn trong bối cảnh chính sách tiền tệ của Mỹ, EU và nhiều nước khác tiếp tục thắt chặt và khó dự báo; Doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa;...
Sau khi phân tích tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, nhất là trong bối cảnh thời gian tới, khó khăn, thách thức tiếp tục nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu rõ, nhiệm vụ đặt ra là hết sức nặng nề, cần phải nắm chắc tình hình; đặc biệt quan tâm công tác phân tích, dự báo để có phản ứng chính sách kịp thời, sát thực tiễn, hiệu quả, đồng thời chuẩn bị kĩ các phương án, giải pháp ứng phó, không để bị động, bất ngờ.
Trong bối cảnh như vậy, phải nhất quán thực hiện mục tiêu là: Kiên định, kiên trì tập trung thực hiện mục tiêu tổng quát theo Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ. Uu tiên tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là phải ưu tiên cho tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm đời sống Nhân dân. Trong chỉ đạo điều hành, cần đặc biệt lưu ý việc bảo đảm cân bằng hài hoà, hợp lý giữa: (1) Lãi suất và tỉ giá; (2) Tăng trưởng và lạm phát, giữa cung và cầu; (3) Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; (4) Theo dõi sát và nắm chắt tình hình bên trong và bên ngoài.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, khoa học, bám sát diễn biến tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh chính sách tiền tệ, tài khóa trong thời gian tới được điều chỉnh theo hướng: Thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng, kịp thời, hiệu quả hơn; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, nhanh chóng, dứt khoát; chú trọng nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp các chính sách.
Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành tập trung quyết liệt, hiệu quả 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp sau:
(1) Nắm chắc tình hình, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để chủ động ứng phó, giải quyết kịp thời, hiệu quả (trường hợp vượt thẩm quyền báo cáo, đề xuất ngay với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ).
(2) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, đặc biệt lưu ý không được đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiêu cực và xử lý nghiêm các vi phạm.
(3) Thúc đẩy mạnh mẽ 3 động lực tăng trưởng: Đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu. Trong đó lưu ý cần đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công và thực hiện các công trình hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia đi qua các địa phương; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chủ động, tích cực giải quyết cung cấp vật liệu xây dựng thông thường cho các dự án đường cao tốc.
(4) Tập trung tháo gỡ khó khăn, khắc phục ngay tình trạng sản xuất kinh doanh trì trệ, khôi phục và tìm kiếm thị trường, đơn hàng mới; yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương phải chủ động rà soát, có biện pháp, hành động cụ thể để hỗ trợ DN, nhà đầu tư một cách kịp thời, thiết thực, hiệu quả.
(5) Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
(6) Chú trọng bảo đảm ASXH, việc làm và đời sống Nhân dân (lưu ý vấn đề tăng lương và kiểm soát giá).
(7) Thúc đẩy các lĩnh vực văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chuyển đổi năng lượng, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn.
(8) Tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế.
(9) Tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề quan trọng, cấp bách hoặc mới phát sinh:
- Đẩy mạnh và hoàn thành dứt điểm công tác quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương, sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả giải ngân 3 CTMTQG, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH.
- Triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch điện VIII; xây dựng hệ thống truyền tải điện; trong đó có chuỗi dự án điện khí Ô Môn, đường dây 500 kV từ miền Trung ra miền Bắc.
- Bảo đảm đủ điện, xăng dầu phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tiêu dùng của Nhân dân.
- Xử lý tình trạng mất cân đối cung cầu lao động tại một số địa phương; chủ động phương án hỗ trợ người lao động.
- Tổ chức tốt tuyển sinh đại học, cao đẳng; đấu thầu in sách giáo khoa theo cơ chế thị trường; xử lý dứt điểm vấn đề thiếu thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế tại một số cơ sở y tế công lập.
- Tập trung giải quyết các vấn đề khiếu nại, khiếu kiện, thực hiện tốt công tác tiếp công dân và tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, chú trọng phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm…
- Làm tốt công tác thông tin truyền thông, đặc biệt là truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội; cương quyết đấu tranh với các thông tin xuyên tạc, xấu, độc, vu khống...
(10) Chuẩn bị kỹ, phục vụ tốt các cuộc họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nhất là Hội nghị Trung ương, kỳ họp Quốc hội vào cuối năm.
Đối với các địa phương, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
- Tập trung chủ động thực hiện tốt công tác lập, thẩm định, phê duyệt hoặc báo cáo các quy hoạch theo thẩm quyền.
- Đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 03 CTMTQG trên địa bàn. Chú trọng giải phóng mặt bằng, chuẩn bị nguyên, vật liệu san lấp, phục vụ xây dựng các dự án cao tốc qua địa bàn.
- Kiên quyết đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh theo thẩm quyền; thành lập và phát huy vai trò Tổ công tác đặc biệt thực hiện nhiệm vụ này do Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm Tổ trưởng.
- Chủ động rà soát, có biện pháp cụ thể thúc đẩy thực hiện các dự án công nghiệp, xây dựng, bất động sản, thương mại; phối hợp xử lý vấn đề trái phiếu DN trên địa bàn; nghiên cứu, chủ động có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đời sống người lao động phù hợp.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm, thay thế kịp thời các trường hợp cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm và các vi phạm pháp luật.
PV Duy Cường (VTV News): Tại Nghị quyết kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XV vừa qua, Quốc hội có yêu cầu Chính phủ thanh tra toàn diện thị trường bảo hiểm nhân thọ, trong đó tập trung vào loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư. Xin cho biết kế hoạch triển khai thanh tra toàn diện thị trường bảo hiểm nhân thọ theo yêu cầu của Quốc hội?
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi: Nghị quyết của Quốc hội đã ban hành, Chính phủ, Bộ Tài chính sẽ triển khai một cách nghiêm túc và hiệu quả chỉ đạo của Quốc hội, sẽ có kế hoạch triển khai thanh tra toàn diện bảo hiểm nhân thọ, trong đó có tập trung vào loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư.
Việc này không phải khi có Nghị quyết của Quốc hội chúng tôi mới làm mà đây là chức năng và nhiệm vụ. Trong thời gian vừa qua, thông qua giám sát và thông tin phản ánh từ thị trường, từ các cơ quan báo chí, Bộ Tài chính đã triển khai công tác thanh tra.
Ngày 30/6 vừa rồi đã công bố kết quả thanh tra đối với 4 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và triển khai hoạt động thông qua liên kết với ngân hàng để kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Có rất nhiều thông tin chi tiết đã được Bộ Tài chính công bố công khai.
Chúng tôi cũng đang triển khai thông qua quy trình thanh tra, sau một thời gian ngắn nữa sẽ xử lý nghiêm vi phạm của những công ty này và tiếp tục công bố.
Kế hoạch của chúng tôi là từ đầu năm 2023 sẽ thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp bảo hiểm. Tới hết năm 2023, theo kế hoạch, sẽ tiến hành thanh tra 10 doanh nghiệp, trong đó thanh tra 5 doanh nghiệp bảo hiểm, 3 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 2 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Chúng tôi tập trung vào liên kết trong hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp này với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại và hướng các nội dung thanh tra theo chỉ đạo của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội đã thông qua.
Bộ Tài chính đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo kiểm tra, giám sát, để thị trường bảo hiểm hoạt động đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm cũng như các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
Trong 6 tháng cuối năm, chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai xây dựng kế hoạch thanh tra các doanh nghiệp bảo hiểm trong năm 2024.
PV Văn Kiên (báo Tiền Phong): Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp thông tin tiến độ giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm. Liệu hết năm 2023 chúng ta có thể tiêu hết số tiền kỷ lục hơn 700.000 tỷ đồng không?
Xin hỏi Ngân hàng Nhà nước, từ đầu năm đến nay, lãi suất liên tục giảm nhưng dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế lại rất thấp, thậm chí dư luận có thông tin "ế" tiền. Xin cho biết rõ hơn tình trạng này, nguyên nhân vì sao? Phải chăng có nghịch lý là doanh nghiệp cần tiền nhưng không đủ điêu kiện vay còn doanh nghiệp đủ điều kiện vay lại không muốn vay?
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương: Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ đã nêu rõ, dự kiến đến 30/6, số liệu giải ngân đạt gần 216.000 tỷ. Đây là một con số khá lớn về tỉ lệ đạt khoảng 30,49% so với kế hoạch Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 (27,75%). Đặc biệt số tiền tuyệt đối so với năm 2022 chúng ta hơn rất lớn là khoảng 65.000 tỷ đồng. Điều đó cho thấy chuyển biến tích cực trong giải ngân vốn đầu tư công. Nguyên nhân là chúng ta thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân ngay từ đầu năm mà Chính phủ đã chỉ đạo, cũng cho thấy sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc quan tâm giải ngân vốn đầu tư công.
Hiện nay, kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 với khối lượng khá lớn khoảng 711.000 tỷ đồng, bao gồm cả vốn kế hoạch năm 2023 và bổ sung từ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết số 43 của Quốc hội. Đây là nhiệm vụ khá lớn, nặng nề trong 6 tháng cuối năm, đòi hỏi tất cả các cấp, các ngành tiếp tục nỗ lực thực hiện các giải pháp từ đầu năm đến giờ chúng ta đã triển khai, thì cần triển khai mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn trong 6 tháng cuối năm, để đáp ứng mục tiêu giải ngân được tối thiểu 95% tổng kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ được giao.
Về khả năng giải ngân kế hoạch vốn được giao: Từ năm 2021 đến nay, hầu hết tiến độ giải ngân của các năm gần đây cơ bản đạt hơn 90%. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin từ nay đến cuối năm đạt mục tiêu của Thủ tướng Chính phủ đề ra. Đồng thời, dưới sự đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ, rất nhiều dự án lớn, dự án trọng điểm về giao thông đã được khởi công. Đây là tín hiệu tốt. Khi bắt đầu khởi công một dự án, toàn bộ phần tiền giải ngân giai đoạn đầu của dự án tập trung vào giải phóng mặt bằng. Giải phóng mặt có lượng vốn lớn sẽ được giải ngân ngay lập tức, không phụ thuộc vào tiến độ thi công, để có thể trả ngay cho người dân, giúp cho khối lượng giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả khá hơn.
Bên cạnh đó, cần phải nhắc đến điểm thuận lợi là kỳ họp Quốc hội vừa qua đã quyết nghị tháo gỡ cho giải ngân vốn đầu tư công cũng như cho phép tiếp tục giao nguồn vốn trung hạn vào các dự án chương trình phục hồi phát triển kinh tế-xã hội. Từ đó sẽ tạo điều kiện có thêm dự án để có thể triển khai từ giờ đến cuối năm. Hơn nữa, Quốc hội cho phép điều hòa linh hoạt giữa nguồn vốn của chương trình phục hồi và các dự án kế hoạch đầu tư trung hạn, để đáp ứng yêu cầu Nghị quyết 43, phấn đấu giải ngân hết trong năm 2023 đúng theo yêu cầu của Quốc hội.
Đó là những điểm thuận lợi để chúng ta hoàn tin tưởng vào sự điều hành của Chính phủ.
Xin hỏi Ngân hàng Nhà nước, từ đầu năm đến nay, lãi suất liên tục giảm nhưng dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế lại rất thấp, thậm chí dư luận có thông tin "ế" tiền. Xin cho biết rõ hơn tình trạng này, nguyên nhân vì sao? Phải chăng có nghịch lý là doanh nghiệp cần tiền nhưng không đủ điêu kiện vay còn doanh nghiệp đủ điều kiện vay lại không muốn vay?
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú: Về điều hành lãi suất, từ đầu năm đến nay NHNN đã hạ lãi suất 4 lần từ 0,5%-2% cho những mức lãi suất điều hành của mình; năm ngoái tăng 2 lần. Từ đó, các ngân hàng thương mại với số liệu tính đến hết tháng 6/2023, lãi suất huy động bình quân giảm từ 0,7-0,8%; lãi suất cho vay bình quân đã giảm từ 1-1,2%.
Tuy nhiên, các NHTM có vốn Nhà nước bao giờ cũng đi đầu thực hiện các chính sách của NHNN. Nhiều ngân hàng có gói giảm rất sâu, dành cho những đối tượng, lĩnh vực cần có sự ưu đãi của Chính phủ và Nhà nước. Nhìn chung, đã đưa ra rất nhiều gói chủ động hạ lãi suất. Xu hướng chung tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tiếp theo.
Đối với lãi suất điều hành của NHNN, hiện nay cho vay theo nghiệp vụ thị trường mở chỉ có 4%, cho vay OMO hoặc cho vay để bù đắp thiếu hụt trong tính toán tạm thời của các ngân hàng thương mại, cho vay qua đêm chỉ 5%. Hai khoản cho vay này hầu như các ngân hàng thương mại thông thường đang thừa thanh khoản, không mặn mà với khoản cho vay của NHNN vì đây là khoản cho vay cuối cùng khi các ngân hàng thương mại cần để hưởng nguồn của NHNN.
Cho vay thông qua thị trường liên ngân hàng, cho vay qua đêm cũng từ 0,4-1%. Có thể nói là rất thấp; một tuần từ 0,8-1,5%, một tháng từ 3-3,2%. Có nghĩa là mức cho vay giữa các ngân hàng với nhau qua thị trường liên ngân hàng rất thấp.
Nhìn chung, lãi suất đang giảm tích cực, kể cả lãi suất điều hành và lãi suất cho vay.
Về dư nợ theo điều hành tín dụng, ngay từ đầu năm xác định từ 14-15% tăng trưởng tín dụng để phù hợp với kỳ vọng hay đúng hơn là chỉ tiêu của Quốc hội và Chính phủ đã giao, góp phần tăng trưởng kinh tế 6,5% và kiểm soát lạm phát trong vòng 4,5%.
Chúng tôi đặt ra 14-15%, nhưng đến hôm nay, dư nợ tín dụng mới tăng 4,2%, số tuyệt đối là 12.423.000 tỷ đồng. Tương đồng với đó là huy động vào khoảng 4,16%. Số tiền gửi huy động là 12.691.000 tỷ đồng. Có nghĩa là huy động cho vay ở thời điểm hiện nay tương đương, kể cả tốc độ, doanh số, số dư. Trong điều hành 14-15%, đến thời điểm hiện nay mới tăng 4,2%, trong giao tín dụng đã giao được khoảng 11% từ đầu năm, như vậy dư địa còn rất nhiều để các ngân hàng có thể cho vay.
Thanh khoản của các ngân hàng thương mại đang thừa. Tuy nhiên nói đến tiền không hẳn như vậy nhưng chính là tốc độ tín dụng đang tăng trưởng chậm. Đúng ra như các nước khi lãi suất tăng cao thì tín dụng có thể tăng trưởng âm, lãi suất chúng ta đã hạ theo thông thường thì tín dụng tăng.
Vì sao có câu chuyện tăng chậm hơn khi lãi suất giảm nhanh? Tôi xin đưa ra một số đánh giá dưới góc độ quản lý, điều hành cũng như thực tế của nền kinh tế:
Thứ nhất, tình hình nền kinh tế đang có nhiều khó khăn, suy giảm về cầu đầu tư, cầu tiêu dùng thấp, như vậy cầu tín dụng cũng không thể tăng cao được.
Thứ hai, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp khó khăn, tồn kho nhiều, nhiều doanh nghiệp khó có đơn hàng, xuất khẩu cũng có những khó khăn nhất định. Thị trường bất động sản chưa sôi động lại, nhiều dự án chưa triển khai được, kể cả những dự án bất động sản thương mại và bất động sản nhà ở xã hội chưa được triển khai nhiều mặc dù NHNN tạo điều kiện về tín dụng cho lĩnh vực bất động sản, sẵn sàng đẩy mạnh những lĩnh vực tỉ lệ rủi ro thấp.
Thứ ba, những doanh nghiệp nhỏ và vừa đang khó tiếp cận tín dụng. Trước đây doanh nghiệp khó về năng lực tài chính để đảm bảo vay phải có khả năng trả nợ, đến nay càng khó hơn. Vấn đề này, Chính phủ, các bộ, ngành, các hiệp hội, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành ngân hàng đang quyết liệt tháo gỡ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp muốn vay nhưng không chứng minh được có thể trả nợ được không, nguyên tắc tối thiểu ngân hàng cho vay phải thu được nợ. Ngược lại, có doanh nghiệp, ngân hàng mời chào vay nhưng lại chưa có nhu cầu vay.
Đây là những nguyên nhân trực tiếp tạo ra những "khác thường" so với những năm trước khi lãi suất giảm mà tín dụng chưa tăng được nhanh. Tuy nhiên, cùng với đồng loạt các chính sách khác mà Chính phủ đang triển khai, hy vọng trong thời gian tới ngành ngân hàng đặt ra yêu cầu phải quản lý tốt, tập trung tăng cường hơn nữa để lãi suất tiếp tục theo hướng giảm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trên cơ sở các ngân hàng thương mại phải tính toán bảo đảm được an toàn tối thiểu cho mình và cắt giảm những chi phí cần thiết có điều kiện hạ lãi suất, cũng như cắt giảm các loại phí.
Bên cạnh đó, tăng cường cải cách thủ tục hành chính. Vừa qua, NHNN đã sửa Thông 39 và 06, qua đó tháo gỡ rất nhiều nội dung, đặc biệt ứng dụng công nghệ số nên đã tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và ngân hàng tiếp cận tín dụng nhanh hơn, thuận lợi hơn.
Tiếp tục xem xét các đối tượng, lĩnh vực để cùng với các bộ, ngành có những chính sách đồng bộ. Chính sách giãn, hoãn, tái cơ cấu các khoản nợ sẽ tiếp tục được tăng cường cũng như chỉ đạo các ngân hàng thương mại, các hiệp hội quan tâm triển khai tốt. Đây là những chính sách rất trực tiếp hỗ trợ cho doanh nghiệp, tháo gỡ cho doanh nghiệp hiện nay.
PV Vi Nhung (Tạp chí Mekong ASEAN): Với mức tăng trưởng 73,72% cho 6 tháng đầu năm thì để đảm bảo tăng trưởng kinh tế cho cả năm 2023, xin Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết những giải pháp trọng tâm, trọng điểm trong 6 tháng cuối năm.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương: Để phục vụ cho phiên họp Chính phủ ngày hôm nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có báo cáo rất đầy đủ, chi tiết về tình hình kinh tế, xã hội 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm. Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã trình bày 2 kịch bản tăng trưởng cập nhật trên cơ sở kết quả của 6 tháng đầu năm cũng như dự báo một số bối cảnh, tình hình trong 6 tháng cuối năm.
Tôi không nói lại nội dung báo cáo, chỉ xin nhấn mạnh một số điểm sau:
Bối cảnh từ nay đến cuối năm cho thấy tình hình còn tiếp tục khó khăn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi như Thủ tướng Chính phủ đã kết luận. Chính vì điều đó, gắn với mục tiêu chúng ta phải đạt theo nghị quyết của Quốc hội là 6,5% cả năm thì nhiệm vụ hết sức nặng nề. Mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư có đưa ra một kịch bản thấp hơn một chút, tăng trưởng ở mức 6% thì tăng trưởng quý III cũng phải đạt 6,8% và tăng trưởng quý IV phải là 9%. Đây là 2 con số khá thách thức. Nếu chúng ta muốn đạt mục tiêu 6,5% của Quốc hội thì tăng trưởng quý III tối thiểu phải 7,4% và quý IV phải 10,3%. Mặc dù quý III của năm 2022 chúng ta đã đạt con số trên 10% rồi, nhưng năm nay khó hơn rất nhiều so với năm ngoái. Dù vậy, nhiệm vụ đặt ra chúng ta vẫn phải thực hiện.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo điều hành của Thủ tướng cũng như của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đề xuất nhóm chính sách giải pháp. Đồng thời trên cơ sở kết quả của 27 đoàn công tác của Chính phủ đi làm việc với địa phương thời gian vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã dự thảo nghị quyết chuyên đề đặc biệt cho 6 tháng cuối năm với tên gọi Nghị quyết về bảo đảm kinh tế vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương cải cách hành chính. Nghị quyết này cũng đã được trình xin ý kiến Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương. Thời gian tới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp thu, giải trình và hoàn thiện dự thảo nghị quyết để trình Chính phủ xem xét ban hành. Đây cũng là nghị quyết tập trung rất nhiều giải pháp để làm sao phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xã hội từ nay đến cuối năm.
Trên cơ sở đó, tôi xin khái quát mấy nhóm vấn đề chủ yếu, trọng tâm từ nay đến cuối năm như sau:
Một là, với nhận định tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp và khó lường, Thủ tướng Chính phủ đặt trọng tâm vấn đề tăng cường phân tích dự báo. Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đặt ra một số nhiệm vụ trọng tâm đối với các bộ, ngành, đặc biệt là các bộ, ngành liên quan đến thị trường quốc tế, nắm bắt chặt chẽ tình hình, diễn biến của quốc tế, trên cơ sở đó đề xuất kịp thời các giải pháp ứng phó linh hoạt trong mọi tình huống.
Nhóm giải pháp thứ hai là bám sát quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải giữ cho bằng được ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là yếu tố nền tảng để chúng ta thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các động lực tăng trưởng. Trên cơ sở như vậy, nhóm giải pháp này tập trung vào việc tiếp tục điều hành hàng hoá, chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng như kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện các chương trình, định hướng cải thiện lãi suất cho vay để kích thích, khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế cũng như tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ chính sách tài khóa về miễn, giảm thuế, triển khai các nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế VAT 2%.
Chúng ta cũng biết rằng trong nhóm giải pháp này, sức ép về điều hành lạm phát từ nay đến cuối năm đã giảm so với trước rất nhiều. Hiện nay mức độ tăng CPI của chúng ta khoảng 3,29%. Như vậy, chúng ta có rất nhiều dư địa so với mục tiêu của Quốc hội là 4,5%, tạo điều kiện cho chúng ta tập trung hơn vào các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng.
Trọng tâm thứ ba là rà soát tất cả động lực tăng trưởng để tác động kích thích tăng trưởng. Có hai khía cạnh để chúng ta thúc đẩy động lực này. Đầu tiên là tháo gỡ khó khăn. Một trong những phân tích của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, khi chúng ta tháo gỡ được một số khó khăn, điểm nghẽn thì đồng nghĩa chúng ta tăng thêm động lực cho tăng trưởng. Ở đây chúng tôi tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Tôi xin tóm gọn lại mấy trọng tâm: Một là tháo gỡ khó khăn. Hai là rà soát các động lực tăng trưởng, trong đó động lực xuất nhập khẩu đang gặp khó khăn, chúng ta tập trung vào động lực phát triển tiêu dùng trong nước, khuyến khích đầu tư, trọng tâm là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Thứ ba là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính. Đây là một trong những nhiệm vụ để khắc phục được hạn chế về tinh thần trách nhiệm đối với một số cán bộ. Thứ tư là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp để khơi thông được động lực từ đầu tư của khu vực tư nhân. Cái cuối cùng không thể bỏ qua là bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của xã hội, đặc biệt trên hai lĩnh vực là y tế và giáo dục, gắn với đó là bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Câu hỏi gửi đến Tổ công tác của Thủ tướng tháo gỡ khó khăn thị trường bất động sản. Các dự án cụ thể đã được xử lý trong thời gian qua như thế nào và việc gỡ khó cho các dự án cụ thể có nên nhân rộng ra để sớm gỡ khó cho các doanh nghiệp không?
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn: Về kết quả tháo gỡ khó khăn cho các dự án bất động sản trong thời gian vừa qua, các cơ quan báo chí đều có thông tin là Chính phủ có Quyết định 1435 vào tháng 11/2022 thành lập tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ để rà soát, đôn đốc, hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững. Tổ công tác này trong thời gian vừa rồi cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều địa phương, trong đó đặc biệt 6 địa phương đã được Tổ công tác trực tiếp can thiệp. Trên cơ sở các báo cáo gửi về tổ công tác tại TPHCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và Đồng Nai và trong thời gian vừa qua, có 3 nhóm khó khăn vướng mắc.
Một là, nhóm khó khăn vướng mắc về thể chế. Hai là, nhóm khó khăn vướng mắc về tổ chức, thực hiện. Ba là, nhóm khó khăn vướng mắc về vấn đề vốn, thị trường trái phiếu, thị trường tín dụng.
Tổ công tác cũng có nhiều khuyến nghị lên Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ vừa qua ban hành rất nhiều văn bản, trong đó nổi bật lên có Nghị quyết 33 về giải quyết những khó khăn vướng mắc thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững và một loạt công điện.
Đối với vấn đề về thể chế, trong thời gian quý II vừa rồi, Chính phủ có ban hành một loạt văn bản và chúng ta có Nghị định về việc chào bán giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ tại thị trường trong nước và ngoài nước. Rồi các nghị định hướng dẫn Luật Đất đai và gần đây nhất ngày 20/6, có Nghị định 35 hướng dẫn một số vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế nhà nước. Bộ Xây dựng và Chính phủ cũng trình Quốc hội một loạt luật có liên quan đến vấn đề bất động sản như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản. Rất kỳ vọng là trong kỳ họp lần thứ 5 và kỳ họp thứ 6, Quốc hội sẽ thông qua Luật Đất đai.
Về tháo gỡ khó khăn trong vấn đề tổ chức triển khai thực hiện, Tổ công tác cũng đã nhận được khoảng 108 văn bản từ các tỉnh, địa phương, doanh nghiệp. Bộ Xây dựng, cơ quan thường trực của Tổ công tác, đã rà soát, chuyển các văn bản này tới UBND tỉnh nếu thuộc thẩm quyền của các UBND tỉnh, thành phố; đồng thời trực tiếp giải quyết các trách nhiệm thuộc bộ, ngành và báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề khó khăn.
Nhóm vấn đề thứ ba liên quan đến thị trường vốn, trong thời gian vừa rồi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một loạt thông tư như Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ của một số doanh nghiệp, Thông tư 03/2023/TT-NHNN về hỗ trợ tín dụng và các ngân hàng nước ngoài mua bán trái phiếu. Đặc biệt, có chương trình tín dụng 120.000 tỷ dành cho phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân.
Đồng thời với vấn đề tháo gỡ khó khăn, giai đoạn vừa rồi, Bộ Xây dựng đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân trong giai đoạn 2021 – 2030. Cùng với việc xây dựng đề án này, Bộ Xây dựng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương xác định đối tượng, danh mục và điều kiện được cho vay vốn. Bộ Xây dựng cũng đã tổ chức một hội nghị trực tuyến với các địa phương để làm sao thúc đẩy được đề án này, đặc biệt tiếp cận được nguồn vốn 120.000 tỷ đồng dành cho lĩnh vực vay phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân.
Đối với các dự án cụ thể, trong thời gian vừa qua, Tổ công tác cũng đã giải quyết các vấn đề quan trọng, trước tiên là đôn đốc các địa phương, có rất nhiều vấn đề vướng mắc thuộc thẩm quyền các địa phương phải chủ động giải quyết. Thứ hai là đề nghị các bộ, ngành hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các địa phương. Thứ ba là phối hợp với các địa phương để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ và trình Thủ tướng Chính phủ những nội dung liên quan đến các quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các dự án lớn, phức tạp, Tổ công tác làm việc trực tiếp để trao đổi. Nổi lên một số dự án, một số địa phương mà các cơ quan báo chí rất quan tâm. Ví dụ, ở Đồng Nai, Tổ công tác đã rà soát 7 dự án bất động sản lớn, trong đó có của Tập đoàn Novaland, Tập đoàn Hưng Thịnh; xác định các vấn đề khó khăn vướng mắc như vấn đề không thuộc quy hoạch hay vấn đề không bố trí 20% nhà ở xã hội. Những nội dung này, Bộ Xây dựng cũng đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ và ngày 31/5 vừa rồi, Thủ tướng Chính phủ thống nhất với các phương án tham mưu của Tổ công tác, sẽ triển khai trong thời gian tới.
Hay ở TPHCM, Tổ công tác đã làm việc và giải quyết khoảng 30 kiến nghị, trong đó có 10 kiến nghị về nhà ở xã hội, 10 kiến nghị về cải tạo chung cư và 4 nội dung về quy hoạch. Về cơ bản, một số kiến nghị thuộc về những lĩnh vực mà địa phương hiểu và chưa áp dụng pháp luật một cách đầy đủ.
Còn đối với tỉnh Bình Thuận, có liên quan tới Novaland, Tổ công tác cũng đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường giải quyết những vấn đề giá đất, tiền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đấy là sơ bộ một số địa phương, một số dự án cụ thể mà Tổ công tác đã làm việc. Cũng phải đánh giá, thời gian vừa qua, các địa phương đều rất tích cực thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án bất động sản. Tuy nhiên thời gian chưa nhiều và những vấn đề tồn tại vướng mắc có quá trình khá dài nên cần có thêm thời gian để tập trung giải quyết. Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng tham mưu Chính phủ cũng như các bộ, ngành địa phương phải tích cực triển khai các chỉ đạo của Chính phủ, trong đó có Nghị quyết 33, các công điện, , các công văn chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, coi đây , là những nhiệm vụ cấp bách quan trọng để giải quyết, đóng góp vào sự phát triển kinh tế vĩ mô và theo cách thuộc thẩm quyền của cấp nào, cơ quan nào thì cấp đó, cơ quan đó phải giải quyết một cách dứt điểm, triệt để.
PV Ngọc An (báo Tuổi Trẻ TPHCM): Hiện nay cắt điện luôn phiên đã giảm hơn so với trước, hệ thống điện không còn dự phòng. Bộ Công Thương đánh giá thế nào về nguy cơ thiếu điện trong thời gian tới nếu như nền kinh tế tiếp tục phục hồi và nhu cầu sử dụng điện tăng cao? Bộ đã xây dựng các kịch bản cung ứng điện như thế nào?
Cơ chế mua bán điện mặt trời áp mái đang được Bộ Công Thương xây dựng và xin ý kiến các bộ, ngành liên quan, trong đó các hệ thống này được phục vụ tự dùng nhưng phải nối lưới với hệ thống điện. Hệ thống này có cần thiết phải nối lưới không khi mà chỉ phục vụ tự dùng? Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng các cơ chế khuyến khích chưa đủ hấp dẫn, Bộ Công Thương có quan điểm gì về vấn đề này?
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải: Liên quan đến câu hỏi của phóng viên về vấn đề cung ứng điện trong 6 tháng cũng như có hay không nguy cơ thiếu điện trong tháng 7 và các tháng cuối năm 2023, số liệu thống kê cho thấy, nhu cầu điện phục vụ hoạt động sản xuất và tiêu dùng của người dân tăng trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm 2022.
Cụ thể, tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia tháng 6/2023 ước đạt 25,323 tỷ kWh, cao hơn 3,4% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia ước đạt 136,090 tỷ kWh (bao gồm sản lượng điện mặt trời mái nhà bán vào hệ thống), cao hơn 2,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Tình hình sản xuất và cung ứng điện toàn hệ thống trong 4 tháng đầu năm 2023 đã được thực hiện tốt, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân cả nước.
Tuy nhiên, tình hình cung cấp điện từ tháng 5 và tháng 6 gặp nhiều khó khăn do thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu tiêu thụ điện tăng, tình hình thủy văn không thuận lợi, lưu lượng nước về các hồ thủy điện thấp, cùng với các khó khăn trong vận hành, sửa chữa các nhà máy điện đã ảnh hưởng đến tình hình cung ứng điện. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã phải thực hiện tiết giảm điện tại một số địa phương, đặc biệt là các địa phương khu vực phía Bắc.
Trong tháng 6, đặc biệt 10 ngày cuối tháng, lưu lượng nước về các hồ thủy điện có cải thiện, mực nước các hồ đã được nâng lên, một số tổ máy nhiệt điện gặp sự cố đã được khắc phục kịp thời và vận hành trở lại; đồng thời với sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt và kịp thời của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương cùng các Bộ, ngành, hệ thống điện miền Bắc đã cơ bản đáp ứng nhu cầu phụ tải.
Bước sang tháng 7, công tác vận hành hệ thống điện dự kiến vẫn còn có những khó khăn, đặc biệt là hệ thống điện miền Bắc khi thời tiết được dự báo còn xảy ra các đợt nắng nóng, trong khi mực nước các hồ thủy điện có cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, để đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định trong tháng 7 và những tháng cuối năm 2023, Bộ Công Thương đã và đang theo dõi sát sao tình hình vận hành của hệ thống điện. Bộ Công Thương đã chỉ đạo thực hiện các giải pháp cụ thể, trong đó yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bám sát và cập nhật liên tục diễn biến thực tế của phụ tải điện, các điều kiện vận hành hệ thống điện và thị trường điện, đảm bảo vận hành và cung cấp điện an toàn, ổn định và tin cậy cho hệ thống điện quốc gia trong năm 2023; chủ động xây dựng các kịch bản ứng phó với các tình huống khó khăn trong hệ thống điện, trường hợp có những ảnh hưởng bất thường đến việc đảm bảo an ninh cung cấp điện, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền để xem xét, chỉ đạo; phối hợp với khách hàng sử dụng điện, đặc biệt là các khách hàng sử dụng điện lớn chuẩn bị kịch bản, kế hoạch thực hiện chương trình điều chỉnh phụ tải điện trong trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo an ninh hệ thống điện.
Nhìn chung, cần thực hiện đồng bộ 4 giải pháp sau:
(i) Cung cấp đủ nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện; tăng khả dụng, hạn chế tối đa sự cố, nhanh chóng khắc phục các sự cố (nếu có).
(ii) Vận hành hợp lý nguồn thủy điện.
(iii) Làm tốt công tác tiết kiệm điện, trong đó vai trò của các UBND các tỉnh, thành phố trên toàn quốc và đầu mối là các Sở Công Thương là rất quan trọng.
(iv) Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án nguồn và lưới điện.
Căn cứ tính toán cập nhật về kế hoạch cung cấp điện cho các tháng tới và việc triển khai hiệu quả các giải pháp nêu trên, chúng tôi cho rằng, nếu không có yếu tố quá bất thường (thời tiết cực đoan, nắng nóng kéo dài, nhiều sự cố của các nhà máy điện lớn đồng thời xảy ra…), thì từ nay đến hết năm 2023 cơ bản sẽ không thiếu điện để phục vụ sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn cả nước.
Liên quan đến vấn đề điện mặt trời mái nhà, hiện nay, Chính phủ đã có chỉ đạo các Bộ, ngành - trong đó có Bộ Công Thương - và các địa phương rà soát, chấn chỉnh việc thực hiện đầu tư phát triển điện mặt trời mái nhà để đảm bảo phát triển điện mặt trời mái nhà bền vững, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Về chủ trương chung đối với phát triển điện mặt trời mái nhà của người dân và mái công trình xây dựng và điện mặt trời tự sản tự tiêu, tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) nêu rõ mục tiêu: "Từ nay đến năm 2030, công suất các nguồn điện loại hình này ước tính tăng thêm 2.600 MW. Loại hình nguồn điện này được ưu tiên phát triển không giới hạn công suất, với điều kiện giá thành hợp lý và tận dụng lưới điện sẵn có, không phải nâng cấp."
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Phó Thủ tướng Chỉnh phủ Trần Hồng Hà, Bộ Công Thương đã có Báo cáo số 74/BC-BCT ngày 13/6/2023 trình Thủ tướng Chính phủ về Dự thảo Quyết định về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà lắp đặt tại nhà ở, công sở, trụ sở của doanh nghiệp tại Việt Nam; cùng với đó, Bộ Công Thương đã có Công văn số 3750/BCT-ĐL ngày 16/6/2023 gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các đơn vị liên quan để lấy ý kiến đối với Dự thảo.
Hiện nay chúng tôi đã nhận được một số ý kiến góp ý. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu các góp ý này, với tinh thần cầu thị, Bộ Công Thương sẽ tổng hợp, tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Quyết định để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Theo Baochinhphu.vn
Liên kết website
Ý kiến ()