Tất cả chuyên mục
Chủ Nhật, 22/12/2024 23:07 (GMT +7)
Kỳ họp thứ 19: HĐND tỉnh nghe báo cáo, tờ trình
Thứ 2, 08/07/2024 | 08:25:00 [GMT +7] A A
Ngay sau phiên khai mạc Kỳ họp thứ 19 (kỳ họp thường lệ giữa năm 2024), các đại biểu HĐND tỉnh khóa XIV đã nghe các báo cáo, tờ trình, dự thảo các nghị quyết. Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, chủ trì.
Đồng chí Cao Tường Huy, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2024: "Quảng Ninh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, đứng thứ 4 trong vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 8 cả nước".
Trong báo cáo, Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024, tỉnh đã tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, xây dựng kịch bản tăng trưởng kinh tế để thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 27/11/2023 của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 176/NQ-HĐND ngày 8/12/2023 của HĐND tỉnh và thực hiện chủ đề công tác năm về “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”; quán triệt nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, “không bàn lùi, chỉ bàn làm”, nỗ lực hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ, khối lượng công việc đặt ra.
Trong 6 tháng, UBND tỉnh đã ban hành 7 chỉ thị, 22 quyết định quy phạm pháp luật, 1.887 quyết định cá biệt, 1.693 công văn, 163 kế hoạch, 107 thông báo, tổ chức nhiều cuộc họp, hội nghị bàn, triển khai nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; điều hành thu, chi ngân sách; kiểm tra thực tế và chỉ đạo, đôn đốc tiến độ các công trình, dự án, giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường cải cách hành chính, chuyển đổi số; tháo gỡ khó khăn cho các ngành, lĩnh vực; xây dựng, thực hiện chính sách đảm bảo an sinh xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh và công tác đối ngoại.
Với sự quyết tâm, nỗ lực, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của các cấp, các ngành, nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024 đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện qua các nhóm kết quả nổi bật, đáng khích lệ.
Kinh tế tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn tỉnh ước tăng 9,02%, vượt cận trên kịch bản tăng trưởng (kịch bản là 9,0%), đứng thứ 4 trong vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 8 cả nước (GDP cả nước 6 tháng tăng 6,42%).
Tổng thu ngân sách nhà nước đến ngày 30/6/2024 đạt 29.130 tỷ đồng, bằng 54% dự toán Trung ương, bằng 52% dự toán tỉnh, bằng 101% so với cùng kỳ, trong đó: Thu từ xuất nhập khẩu đạt 9.593 tỷ đồng, bằng 77% dự toán Trung ương, bằng 74% dự toán tỉnh, tăng 23% so với cùng kỳ; thu nội địa đạt 19.532 tỷ đồng, bằng 48% dự toán Trung ương, bằng 46% dự toán tỉnh, bằng 93% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương đạt 8.502 tỷ đồng, bằng 30% dự toán năm, tăng 4% so cùng kỳ.
Các động lực tăng trưởng từ phía cung (các khu vực kinh tế) tiếp tục có chuyển biến tích cực, trong đó: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,6% (kịch bản là 6,56%); ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 23,05 %, cao hơn 10,3 % cùng kỳ, là động lực tăng trưởng chính; khu vực dịch vụ tăng 13,8% (kịch bản là 13,56%); thuế sản phẩm tăng 4,7%; khu vực nông, lâm, thủy sản duy trì đà tăng khá, tăng 4,3% (kịch bản là 4,13%).
Các động lực tăng trưởng từ phía cầu (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu) tăng trưởng và phục hồi tích cực hơn. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 48.035 tỷ đồng, tăng 9,1%; khách du lịch đạt 10,4 triệu lượt, tăng 18%, trong đó khách quốc tế đạt gần 2 triệu lượt, tăng 140% cùng kỳ (cả nước đạt 8,8 triệu lượt khách quốc tế); doanh thu du lịch đạt 22.285 tỷ đồng, tăng 34%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 13,1%; kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong tỉnh đạt 1.669 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 1,55 tỷ USD, đạt xấp xỉ 52% kế hoạch năm, tăng 118% so với cùng kỳ, đứng thứ 3 cả nước (sau Bắc Ninh và Bà Rịa - Vũng Tàu), chiếm 10% tổng thu hút vốn FDI cả nước là 15,2 tỷ USD. Toàn tỉnh có 983 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 12% so cùng kỳ, có 140 hợp tác xã thành lập mới, tăng 629% so cùng kỳ. Đến nay, toàn tỉnh có 11.590 doanh nghiệp và 673 hợp tác xã đang hoạt động.
Nhìn chung, kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, nổi bật trên các lĩnh vực, được nhân dân, doanh nghiệp ghi nhận. Đây là nền tảng để phấn đấu hoàn thành thắng lợi và vượt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Các cấp, các ngành đã thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh, phúc lợi xã hội. Tổng chi an sinh xã hội ước đạt 1.144 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ. Năm 2024, ngân sách tỉnh đã bố trí 981,9 tỷ đồng để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Đến ngày 30/6/2024, giải ngân đạt 358 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 36,5%. Hoàn thành sớm hơn 2 năm chương trình xây dựng nông thôn mới ở cả 3 cấp từ tỉnh đến xã, trong đó, Bình Liêu là huyện dân tộc, miền núi, biên giới đầu tiên trong cả nước đạt chuẩn nông thôn mới; Tiên Yên, Đầm Hà là 2 huyện đầu tiên trong cả nước đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo tiêu chí của giai đoạn 2021-2025. 6 tháng đầu năm đã giảm 121/246 hộ nghèo, bằng 49% kế hoạch năm, giảm 828/1.200 hộ cận nghèo, bằng 69% kế hoạch năm, bằng 27% tổng số hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều tại Nghị quyết số 13 của Tỉnh; chỉ đạo chuẩn bị tốt Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp tỉnh, cấp huyện lần thứ IV năm 2024.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, chủ động các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; đã thu hút 37 bác sỹ về làm việc tại một số cơ sở y tế theo Nghị quyết số 28 của HĐND tỉnh; thành lập Chi hội Hội vận động hiến mô, bộ phận cơ thể người tại Quảng Ninh. Đến nay, toàn tỉnh có 141/177 xã, phường, thị trấn đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,4% dân số. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 46,15% so với lực lượng lao động trong độ tuổi.
Lĩnh vực giáo dục, đào tạo đạt nhiều thành tích cao, xếp thứ 8/70 đơn vị dự kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2023-2024, đạt 85 giải, tăng 5 bậc so với kỳ thi năm trước; tổ chức thành công, an toàn, nghiêm túc đúng Quy chế Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 và Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2024. Đã hỗ trợ chênh lệch học phí năm học 2023-2024 theo Nghị quyết số 33 của HĐND tỉnh cho 188.107 đối tượng, với tổng kinh phí dự toán 261,5 tỷ đồng; tổ chức sắp xếp các trường phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 90,5%. Thành lập Ban chỉ đạo hoạt động hè triển khai các biện pháp quản lý, giáo dục, đảm bảo an toàn cho thanh thiếu nhi, học sinh.
Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: 6 tháng cuối năm 2024, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tạo áp lực lên điều hành phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng. Tuy nhiên, cũng có những cơ hội, thuận lợi, thời cơ đan xen, tạo điều kiện để phấn đấu đạt và vượt kế hoạch năm 2024.
Trên cơ sở kết quả sơ bộ quý II, 6 tháng và dự báo cả năm, UBND tỉnh xây dựng điều chỉnh kịch bản tăng trưởng bám sát các chỉ tiêu đề ra tại Kết luận số 1156-KL/TU ngày 26/6/2024 của Tỉnh ủy để hoàn thành các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 10,9%; thu ngân sách nhà nước không thấp hơn 55.600 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng trên 10%, trọng điểm là thu hút vốn FDI cả năm đạt ít nhất 3 tỷ USD; tổng khách du lịch đạt từ 17-18 triệu lượt khách...
Để hoàn thành những mục tiêu trên, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh, toàn tỉnh cần phải tập trung cao độ cho những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2024: Xác định 3 trụ cột bảo đảm giữ vững tăng trưởng kinh tế hai con số năm 2024 đó là: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Đầu tư công, đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngoài ngân sách; Du lịch, dịch vụ, kinh tế biển và kinh tế số; Xác định yếu tố bảo đảm sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội là giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững ngành than, điện.
Xác định các động lực cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là: Các khu công nghiệp, khu kinh tế, còn dư địa tăng trưởng lớn; Phát triển kinh tế di sản, kinh tế đô thị, kinh tế số, kinh tế cửa khẩu; Phát huy tối đa hiệu quả từ hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể để thúc đẩy hội nhập, hợp tác, kết nối, liên kết; Sự năng động, đổi mới sáng tạo, hiệu lực, hiệu quả của khu vực công; Niềm tin của nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp.
Đồng chí nhấn mạnh các giải pháp: Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, các nguồn lực của nền kinh tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, điều hành thu - chi ngân sách, khắc phục hạn chế trong công tác chuẩn bị thủ tục đầu tư công; tập trung giải ngân vốn đầu tư công gắn với nâng cao chất lượng dự án, công trình; đẩy mạnh tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; sớm hoàn thành dứt điểm các dự án hạ tầng giao thông chiến lược. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển con người, xây dựng văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh; đảm bảo an sinh, phúc lợi, công bằng xã hội; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; chuẩn bị tốt đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng...
Đồng chí Nguyễn Văn Hồi, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh trình bày Báo cáo kết quả công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền 6 tháng năm 2024, những vấn đề cử tri và nhân dân quan tâm gửi tới kỳ họp
Trong 6 tháng năm 2024, Ủy ban MTTQ các cấp đã tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia có trách nhiệm và thiết thực các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nuớc và các chủ trương, định hướng lớn của tỉnh, nhất là: Tuyên truyền, vận động nhân dân trong việc thực hiện chủ đề công tác năm về “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”; tuyên truyền, vận động nhân dân tổ chức các hoạt động chào mừng Đại hội MTTQ các cấp và các hoạt động nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024); tuyên truyên công tác phòng, chống tai nạn, thương tích, đuối nước, tệ nạn xã hội, an toàn giao thông...
Bên cạnh đó, MTTQ đã chủ động phối hợp với chính quyền các cấp triển khai đồng bộ các phong trào thi đua yêu nưóc, các cuộc vận động gắn với thực hiện chủ đề công tác năm góp phần giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo quốc phòng, an ninh và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Trong đó, tham gia tích cực các hoạt động an sinh xã hội; tổ chức tốt việc lấy ý kiến hài lòng của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới nâng cao; nông thôn mới kiểu mẫu đối với các xã trên địa bàn một số huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh và hoàn thiện lấy phiếu bổ sung kết quả hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới của tỉnh... thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, giám sát và phản biện xã hội; phát huy dân chủ, tích cực tham gia xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Đồng thời, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội.
Nhân dân ghi nhận và đánh giá cao Thường trực HĐND, UBND tỉnh đã sâu sát, quyết liệt, trách nhiệm trong giám sát, chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, đơn vị liên quan tập trung giải quyết dứt điểm các ý kiến, kiến nghị cử tri và nhân dân gửi đến các kỳ họp của HĐND tỉnh, đồng thời kiến nghị một số nội dung tới kỳ họp. Trong đó, cử tri và nhân dân mong muốn cấp uỷ, chính quyền các cấp, nhất là người đúng đầu, tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa sai phạm, ngăn ngừa sự tha hoá, biến chất của cán bộ từ sớm, từ xa cùng với quyết tâm, quyết liệt triển khai có hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín phục vụ nhân dân.
Quan tâm điều chỉnh chủ trương đầu tư 3 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội gắn với triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 15/7/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cho phù họp với tình hình mới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tích cực vào cuộc phát huy hiệu quả phong trào chung tay “đỡ đầu trẻ em mồ côi có hoàn cảnh khó khăn, không có nguồn nuôi dưỡng”. Chính quyền các cấp trong tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp ổn định đời sống nhân dân. Đồng thời, các cơ quan chức năng của tỉnh tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH, BHYT đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với các đơn vị có dấu hiệu vi phạm, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật BHXH.
UBND tỉnh quyết liệt chỉ đạo chính quyền các địa phương có giải pháp hữu hiệu để đảm bảo an toàn và giảm thiểu tối đa những sự cố thương tâm về tai nạn lao động, thương tích đuối nước trong tình hình hiện nay; kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác bảo vệ môi trường.
UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo ngành Y tế quan tâm hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ y, bác sĩ tuyến cơ sở để nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân tại các cơ sở y tế; tiếp tục phối hợp trong công tác tuyên truyền, tạo sức lan toả nhiều hơn để nhiều người dân tham ra đăng ký hiến mô, tạng khi đủ điều kiện, đồng thời mở rộng để có nhiều bệnh viện trong tỉnh thực hiện được việc cấy ghép mô, tạng phục vụ nhân dân trong thời gian tới…
Đồng chí Phạm Hồng Biên, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở KH&ĐT, trình bày tóm tắt 4 tờ trình về lĩnh vực đầu tư công.
Theo báo cáo của UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh phê duyệt điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách cấp tỉnh, nguồn vốn điều chỉnh, phân bổ là trên 2.786 tỷ đồng nguồn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách cấp tỉnh còn lại chưa phân bổ. Phương án phân bổ nguồn vốn điều chỉnh nói trên như sau: Phân bổ cho 6 dự án hoàn thành, quyết toán, dự án theo hình thức đối tác công tư với số tiền trên 48 tỷ đồng; bổ sung danh mục và kế hoạch đầu tư công trung hạn cho 15 dự án, chương trình khởi công mới 2024-2025 với số tiền là gần 2.738 tỷ đồng.
Về việc điều chỉnh, bổ sung, phân bổ kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách cấp tỉnh 2024, nguồn vốn bổ sung kế hoạch đầu tư công năm 2024 là trên 1.557 tỷ đồng, gồm: nguồn vốn trung ương thưởng vượt thu năm 2022 là 42 tỷ đồng; nguồn cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên chuyển sang chi đầu tư là trên 1.515 tỷ đồng. Theo đó, 42 tỷ đồng nguồn vốn trung ương thưởng vượt thu năm 2022 hỗ trợ UBND huyện Đầm Hà đầu tư 3 dự án trường học. Đối với trên 1.515 tỷ đồng từ nguồn cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên chuyển sang chi đầu tư sẽ phân bổ như sau: trên 69 tỷ đồng cho 11 dự án đã hoàn thành, quyết toán; trên 1.446 tỷ đồng cho các dự án, chương trình khởi công mới.
Đối với Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết thông qua dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2025, dự kiến nguồn vốn kế hoạch đầu tư công năm 2025 khoảng 13.418 tỷ đồng, gồm: ngân sách trung ương là trên 557 tỷ đồng; ngân sách cấp tỉnh là trên 9.835 tỷ đồng; ngân sách huyện là 3.025 tỷ đồng. Dự kiến nguồn vốn ngân sách trung ương dự kiến phân bổ cho 1 dự án. Về nguồn vốn ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ 1 tỷ đồng các địa phương theo phương án chấm điểm; gần 787 tỷ đồng cho vốn chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế-xã hội bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh ở các xã thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo gắn với xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025; vốn chuẩn bị đầu tư thực hiện quy hoạch là 20 tỷ đồng; trên 310 tỷ đồng cho các dự án hoàn thành; trên 5.639 tỷ đồng cho các dự án chuyển tiếp; 2.079 tỷ đồng cho các dự án dự kiến khởi công mới năm 2025.
Nguồn vốn ngân sách huyện sẽ do UBND cấp huyện trình HĐND cùng cấp phân khai chi tiết theo quy định.
Giám đốc Sở Tài chính Trần Văn Lâm trình bày tóm tắt Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết về việc bổ sung, điều chỉnh, phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh năm 2024.
Theo đó, đối với phân bổ dự toán thường xuyên ngân sách cấp tỉnh, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phân bổ kinh phí 446,380 tỷ đồng thực hiện các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội (từ nguồn cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên). Như vậy, sau khi phân bổ cho các nội dung, nhiệm vụ thì nguồn cơ cấu các nhiệm vụ chi thường xuyên còn lại là 1.515,415 tỷ đồng.
UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phân bổ 314,457 tỷ đồng (từ nguồn kinh phí ngân sách Trung ương hỗ trợ đảm bảo mặt bằng chi ngân sách địa phương năm 2024) để thực hiện các nội dung, nhiệm vụ trong lĩnh vực giáo dục, đảm bảo an ninh trật tự. Như vậy, sau khi phân bổ cho các nội dung, nhiệm vụ trên, số kinh phí ngân sách trung ương bù mặt bằng chi còn lại là 602,770 tỷ đồng.
Về cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên để bổ sung vốn đầu tư công, căn cứ nguồn cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên sau khi dự kiến bố trí cho một số nhiệm vụ chi thường xuyên phát sinh, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh điều chỉnh giảm 1.515,415 tỷ đồng dự toán chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh để bổ sung kế hoạch chi đầu tư công ngân sách cấp tỉnh năm 2024 (dự toán chi đầu tư phát triển sau điều chỉnh đạt 52% tổng chi ngân sách địa phương).
Căn cứ các nguồn vốn dự kiến bổ sung kế hoạch đầu tư công ngân sách tỉnh năm 2024, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phân bổ 1.557,415 tỷ đồng kế hoạch đầu tư ngân sách tỉnh năm 2024 từ các nguồn: Nguồn cơ cấu lại nhiệm vụ chi thường xuyên năm 2024; nguồn Trung ương thưởng vượt thu năm 2022.
Để việc sử dụng vốn có hiệu quả, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách tỉnh 264,638 tỷ đồng (vốn hỗ trợ phát triển sản xuất), thực hiện ủy thác qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội (chi đầu tư phát triển khác).
Trên cơ sở rà soát danh mục các dự án đủ điều kiện ghi thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, ghi chi tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng nhà đầu tư tự nguyện ứng trước tới thời điểm hiện nay, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh bổ sung: Dự án Khu biệt thự phía Tây Nam Khu biệt thự đồi 368, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long với số tiền 8,637 tỷ đồng, Dự án khu đô thị đại lộ Hòa Bình tại phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái (giao đất đợt 2) với số tiền 4,553 tỷ đồng.
Về phương án xử lý đối với nguồn kinh phí trung ương bù mặt bằng chi còn lại chưa phân bổ, UBND tỉnh sẽ giao các cơ quan, đơn vị rà soát để đề xuất phân bổ cho các nội dung, nhiệm vụ phát sinh 6 tháng cuối năm; đồng thời chỉ đạo các địa phương căn cứ kế hoạch và khả năng thu tiền sử dụng đất để rà soát, cơ cấu lại các khoản thu, nhiệm vụ chi, trong trường hợp vẫn không đảm bảo được cân đối ngân sách địa phương, sẽ tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, hỗ trợ.
+ Đối với Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết quy định mức lập dự toán, định mức chi kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Theo đó, đối với định mức lập dự toán kinh phí NSNN thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (bằng 100% định mức tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC), gồm 4 khoản: (1) Dự toán chi tiền thù lao tham gia nhiệm vụ khoa học và công nghệ; (2) Dự toán chi thù lao tham gia hội thảo khoa học, diễn đàn, tọa đàm khoa học; (3) Dự toán chi họp tự đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; (4) Dự toán chi quản lý chung.
Đối với một số định mức chi quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, gồm 4 khoản 80% định mức tại Thông tư số 03/2023/TT-BTC: (1) Chi tiền thù lao của các Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ; (2) Chi tiền thù lao của tổ thẩm định kinh phí thực hiện nhiệm vụ; (3) Chi tiền thù lao cho Hội đồng đánh giá nhiệm vụ; (4) Chi hội nghị, hội thảo khoa học phục vụ công tác quản lý nhiệm vụ, chương trình khoa học và công nghệ.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc thi hành nghị quyết sau khi được thông qua, bình quân kinh phí dự kiến chi cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong giai đoạn 2016 đến nay là 38,2 tỷ đồng/năm. Sau khi áp dụng theo mức mới dự kiến bình quân tăng khoảng 9,86 tỷ đồng/năm (tăng 20%), phù hợp với tăng lương bình quân tăng khoảng 30% từ ngày 1/7/2024. Tổng kinh phí dự kiến chi cho các nhiệm vụ trung bình tăng từ 38,2 tỷ đồng/năm lên khoảng 48 tỷ đồng/năm.
Phó Giám đốc Sở Nội vụ Phạm Thị Thùy Hương trình bày tóm tắt các tờ trình về lĩnh vực nội vụ.
* Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết tán thành chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 - 2025.
Đồng chí Phó Giám đốc Sở Nội vụ đã trình bày sự cần thiết cũng như quá trình xây dựng Đề án sắp xếp và dự thảo Nghị quyết. Đồng chí báo cáo rõ: Trong giai đoạn 2023-2025, tỉnh không thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp 12 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 8 đơn vị diện sắp xếp và 4 đơn vị diện liên quan).
Nội dung cơ bản của dự thảo nghị quyết chỉ rõ:
- Huyện Ba Chẽ: Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của xã Minh Cầm vào xã Lương Mông thành xã Lương Minh.
- TP Cẩm Phả: Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của xã Cẩm Hải vào xã Cộng Hòa thành xã Hải Hòa.
- TX Đông Triều:
- Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của xã Tân Việt vào xã Việt Dân thành xã Việt Dân.
- Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của phường Đông Triều vào phường Đức Chính thành phường Đức Chính.
- TP Móng Cái: Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của phường Hòa Lạc vào phường Trần Phú thành phường Trần Phú.
- TP Hạ Long: Nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của phường Trần Hưng Đạo vào phường Yết Kiêu thành phường Trần Hưng Đạo.
Sau sắp xếp các đơn vị hành chính giai đoạn 2023-2025, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên 13 đơn vị hành chính cấp huyện, có 171 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 95 xã, 69 phường và 7 thị trấn; giảm 6 đơn vị, gồm 3 xã, 3 phường.
* Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết về việc phê duyệt bổ sung biên chế sự nghiệp giáo dục mầm non và phổ thông công lập năm 2024.
Tờ trình chỉ rõ giao bổ sung 238 chỉ tiêu biên chế sự nghiệp giáo dục mầm non và phổ thông công lập năm học 2023-2024, cụ thể như sau:
Sở GD&ĐT: Giao 75 chỉ tiêu biên chế cho các Trường THPT theo Quyết định số 2382-QĐ/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương
13 UBND cấp huyện: Giao 163 chỉ tiêu biên chế cho các Trường Mầm non, Tiểu học, THCS (cụ thể: Hạ Long 38; Móng Cái 27; Cẩm Phả 15; Uông Bí 13; Quảng Yên 20; Đông Triều 18; Vân Đồn 3; Cô Tô 1; Tiên Yên 6; Bình Liêu 4; Ba Chẽ 3; Đầm Hà 5; Hải Hà 10).
Nguyên tắc giao bổ sung: Thực hiện giao tổng số biên chế, không phân định cụ thể theo các cấp học từ mầm non đến THCS nhằm tạo sự chủ động cho UBND cấp huyện trong việc cân đối biên chế giữa các cấp học, các trường và phù hợp với thực tế giao biên chế trong thời gian qua. Số lượng giao bổ sung tương ứng theo tỷ lệ % biên chế còn thiếu của từng địa phương.
* Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết quyết định số lượng hợp đồng lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024.
Tờ trình chỉ rõ: Giao bổ sung 1.145 hợp đồng lao động theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập nhóm 4 (do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên) năm 2024, cụ thể như sau:
Sở GD&ĐT: Giao 50 hợp đồng lao động.
UBND cấp huyện: Giao 1.095 hợp đồng lao động (cụ thể: Hạ Long 126; Móng Cái: 210; Cẩm Phả 8: Uông Bí 76; Quảng Yên 104; Đông Triều 97; Vân Đồn 50; Cô Tô 17; Tiên Yên 87; Bình Liêu 62; Ba Chẽ 43; Đầm Hà 72; Hải Hà 143).
Nguyên tắc giao bổ sung: Số giao HĐLĐ không quá 70% số chênh lệch giữa số lượng người làm việc được giao với số lượng theo định mức tại các Thông tư số 19/2023/TT-BGDĐT và Thông tư số 20/2023/TT-BGDĐT ngày 30/10/2023 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
* Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết quy định tặng thưởng danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú”.
Phó Giám đốc Sở Nội vụ nêu rõ: Trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh chưa có hình thức biểu dương, tôn vinh, khen thưởng riêng đối với các cá nhân ưu tú đang sinh sống, học tập, làm việc tại tỉnh có những đóng góp đặc biệt xuất sắc chọ sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh. Do đó, việc quy định về tặng danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú” của tỉnh là hết sức cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển.
Việc xây dựng Nghị quyết trên cơ sở tham khảo của một số tỉnh, thành như: Hà Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Nguyên... Dự thảo đã được sự đồng thuận của Bộ Tài chính và Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
Nội dung Nghị quyết quy định rõ phạm vi, đối tượng áp dụng; nguyên tắc, điều kiện, tiêu chuẩn, thời gian, số lượng xét tặng, thẩm quyền quyết định, hồ sơ, quy trình xét tặng; tổ chức tôn vinh; hủy bỏ quyết định, tước danh hiệu, kinh phí thực hiện và cách thức tổ chức thực hiện. .
Đối tượng áp dụng: Cá nhân là công dân Việt Nam hiện đang cư trú, lao động, học tập, công tác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có thành tích đặc biệt xuất sắc, đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Ninh.
Nguyên tắc xét tặng: Cá nhân được xét tặng phải là người đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu trong lĩnh vực được xét tặng; cá nhân chỉ được tặng danh hiệu một lần, không áp dụng hình thức truy tặng.
Điều kiện xét tặng: Có thành tích đặc biệt xuất sắc; có phẩm chất đạo đức tốt; gia đình gương mẫu chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không xét tặng đối với cá nhân đang trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật, thanh tra, kiểm tra...
Tiêu chuẩn xét tặng: Danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú” được xét tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc tiêu biểu trong các lĩnh vực: Lao động, sản xuất, kinh doanh; Quản lý Nhà nước; công tác Đảng, MTTQ và đoàn thể; quốc phòng, an ninh; văn hóa, thể thao và du lịch; nghiên cứu khoa học; giáo dục và đào tạo; y tế; hoạt động xã hội; dân tộc, tôn giáo.
Thời gian xét tặng: Vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập tỉnh Quảng Ninh (30/10) hằng năm; số lượng xét tặng không quá 10 cá nhân trong một năm để bảo đảm tính tiêu biểu, xuất sắc.
Cá nhân được tặng danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú” được nhận Bằng chứng nhận, vật phẩm lưu niệm, tiền thưởng 50 triệu đồng và được ghi tên vào Sổ vàng truyền thống của tỉnh. Mức tiền thưởng 50 triệu đồng là phù hợp vói thực tiễn công tác thi đua, khen thưởng trong cả nước và điều kiện phát triển KT-XH của tỉnh.
Cá nhân được tặng danh hiệu bị hủy bỏ quyết định và thu hồi hiện vật, tiền thưởng, xóa tên trong sổ vàng truyền thống của tỉnh khi có một trong các hành vi vi phạm như: Kê khai gian dối thành tích; có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức, lối sống làm mất uy tín, ảnh hưởng xấu trong xã hội, cộng đồng.
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Trần Như Long, trình bày các tờ trình.
Đối với tờ trình thông qua danh mục các công trình, dự án thu hồi đất; chuyển mục đích sử dụng đất; chuyển mục đích sử dụng rừng; hủy bỏ công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua nhưng quá 3 năm chưa triển khai thực hiện đề nghị:
Thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 đối với 17 công trình, dự án với tổng diện tích 22,56 ha.
Điều chỉnh diện tích dự án, diện tích thu hồi đất của 5 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất tại Nghị quyết số 186/NQ-HĐND ngày 8/12/2023; Nghị quyết số 60/NQ-HĐND ngày 9/12/2021; Nghị quyết số 28/NQ-HĐND ngày 16/7/2021; Nghị quyết số 86/NQ-HĐND ngày 31/3/2022.
Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa theo quy định tại Điều 58 Luật Đất đai năm 2013 để thực hiện 26 công trình, dự án với diện tích 21,443 ha.
Chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ theo quy định tại Điều 58 Luật Đất đai năm 2013 để thực hiện 7 công trình, dự án với diện tích 24,99 ha.
Điều chỉnh diện tích dự án, diện tích chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa của 2 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua tại các Nghị quyết số 333/NQ-HĐND ngày 24/3/2021, Nghị quyết số 147/NQ-HĐND ngày 30/3/2023.
Hủy bỏ 5 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa (Do quá 3 năm chưa triến khai thực hiện; đã có quyết định hủy bỏ quy hoạch chi tiết xây dựng).
Hủy bỏ 17 công trình, dự án đã được HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất (Do quá 3 năm chưa triển khai thực hiện; đã có quyết định hủy bỏ quy hoạch chi tiết xây dựng).
Thông qua danh mục 27 dự án, công trình quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, tổng diện tích rừng đề nghị quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác là 137,0267 ha rừng trồng.
Thông qua 1 dự án, công trình trên địa bàn huyện Bình Liêu đề nghị điều chỉnh diện tích quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác với tổng diện tích đề nghị điều chỉnh là 30,75 ha rừng trồng.
Thông qua 1 dự án, công trình quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác trên địa bàn TP Hạ Long với 2,32 ha rừng tự nhiên ngập mặn thuộc quy hoạch rừng phòng hộ.
Đồng chí Nguyễn Minh Sơn, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trình bày tóm tắt các tờ trình thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp.
* Trong Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 337/2021/NQ-HĐND ngày 23/4/2021 của HĐND tỉnh về việc ban hành một số chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh, Giám đốc Sở NN&PTNT nhấn mạnh, ngày 24/5/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2024/NĐ-CP về một số chính sách đầu tư trong lâm nghiệp. Đối chiếu phạm vi Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND còn hẹp so với Nghị định số 58/2024/NĐ-CP và chính sách hỗ trợ theo Nghị định số 58/2024/NĐ-CP chưa đủ mạnh. Do đó, việc ban hành Nghị quyết mới là rất cần thiết để đảm bảo phạm vi, đối tượng, có chính sách đủ mạnh, tạo bước đột phá trong phát triển rừng gỗ lớn và các loài cây lâm đặc sản dưới tán rừng, nâng cao đời sống cho người trồng rừng.
Quá trình xây dựng nội dung chính sách được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và tổng hợp, tiếp thu ý kiến của các sở, ngành, địa phương, chuyên gia, chủ rừng trên địa bàn tỉnh, được Sở Tư pháp thẩm định.
Nội dung cơ bản của Nghị quyết như sau: Mở rộng phạm vi áp dụng từ 3 địa phương (Hạ Long, Ba Chẽ, Cẩm Phả) thành áp dụng trên địa bàn toàn tỉnh. Mở rộng đối tượng áp dụng từ “hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh” thành “doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), HTX, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh”.
Nghị quyết cũng điều chỉnh, bổ sung nguyên tắc, điều kiện áp dụng chính sách; điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của chính sách hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn; bổ sung chính sách hỗ trợ sản xuất dưới tán rừng cho tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân.
Dự kiến nguồn lực thực hiện khoảng 309 tỷ đồng từ chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng, chương trình, đề án, dự án có liên quan và các nguồn vốn hợp pháp khác.
* Đối với Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết quy định khu vực thuộc nội thành của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, Giám đốc Sở NN&PTNT nêu rõ, việc triển khai Nghị quyết thực hiện theo quy định của Luật Chăn nuôi 2018. Nội dung của Nghị quyết được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và tổng hợp, tiếp thu ý kiến của các sở, ngành, địa phương, được Sở Tư pháp thẩm định và đặc biệt đã được Uỷ ban MTTQ tỉnh tổ chức phản biện xã hội.
Theo Tờ trình, đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi tại khoản 2, điều 2, Luật Chăn nuôi 2018 (không áp dụng đối với trường hợp nuôi động vật làm cảnh, nuôi động vật trong phòng thí nghiệm mà không gây ô nhiễm môi trường).
Khu vực không được phép chăn nuôi gồm: Các khu vực thuộc các phường, thị trấn trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố; các khu chung cư, nhà ở xã hội, khu tái định cư tập trung, khu đô thị nằm trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi trong khu vực không được phép chăn nuôi phải chấm dứt hoạt động chăn nuôi từ ngày 1/1/2025. Kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2024, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có cơ sở chăn nuôi nằm trong khu vực không được phép chăn nuôi vẫn được hưởng các chính sách hỗ trợ hiện hành của tỉnh. Chăn nuôi tại các địa bàn khác không thuộc khu vực được phép chăn nuôi phải đảm bảo tuân thủ quy định tại Thông tư số 23/2019/TT-BNNPTNT ngày 30/10/2019 của Bộ NN&PTNT và các quy định pháp luật liên quan.
Phó Giám đốc Công an tỉnh Nguyễn Thuận trình bày tóm tắt Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết quy định tiêu chí thành lập và tiêu chí về số lượng thành viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự; mức chi hỗ trợ, bồi dưỡng, mua sắm và sửa chữa trang, thiết bị bảo đảm điều kiện hoạt động đối với Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh.
Theo đó, về tiêu chí thành lập Tổ bảo vệ an ninh, trật tự: Mỗi thôn, bản, khu phố thành lập 1 Tổ bảo vệ an ninh, trật tự, toàn tỉnh có 1.452 tổ.
Tiêu chí số lượng thành viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự: Thôn, bản, khu phố loại I không quá 5 thành viên. Thôn, bản, khu phố loại II không quá 4 thành viên. Thôn, bản, khu phố loại III không quá 3 thành viên. Khu phố có từ 500 hộ gia đình trở lên bố trí thêm không quá 1 tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự. Tổng số dự kiến là 6.763 người (1.452 tổ trưởng, 1.452 tổ phó, 3.859 tổ viên).
Mức chi hỗ trợ, bồi dưỡng và các khoản chi khác bảo đảm điều kiện hoạt động đối với Tổ bảo vệ an ninh, trật tự và các thành viên gồm: Một là, mức tiền hỗ trợ thường xuyên hằng tháng đối với Tổ trưởng bằng 1,3 mức lương cơ sở/người (2.340.000 đồng); Tổ phó bằng 1,2 mức lương cơ sở/người (2.160.000 đồng); Tổ viên bằng 1,0 mức lương cơ sở/người (1.800.000 đồng). Được hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế mức 100%; được hỗ trợ, bồi dưỡng khi thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (mức 26.000 đồng và 32.000 đồng/người/ngày); khi làm việc từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau; vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết… thì được bồi dưỡng thêm mức tiền 100.000 đồng/người/1 lần. Khi làm nhiệm vụ tại những nơi ngoài địa bàn thường xuyên thuộc khu vực biên giới, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số hoặc tại đơn vị hành chính cấp xã trọng điểm về quốc phòng theo quyết định triệu tập của Chủ tịch UBND cấp xã để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự được hưởng mức tiền bồi dưỡng ngày công lao động tăng thêm bằng 0,12 lần lương cơ sở/người/ngày; được hỗ trợ chi phí do ốm đau, bị tai nạn, bị thương, bị chết khi thực hiện nhiệm vụ trong trường hợp chưa tham gia Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế.
Hai là, được trang bị trang phục, huy hiệu, phù hiệu, biển hiệu, giấy chứng nhận; được hỗ trợ mua sắm, sửa chữa phương tiện, thiết bị theo danh mục quy định tại Nghị định số 40/2024/NĐ-CP, ngày 16/4/2024 của Chính phủ và hỗ trợ kinh phí công tác tập huấn, diễn tập, hội nghị, hội thi, sơ kết, tổng kết, khen thưởng do địa phương tổ chức.
Dự kiến bổ sung nguồn kinh phí cho thực hiện Nghị quyết trong 6 tháng cuối năm 2024 là 157,500 tỷ đồng. Từ năm 2025, dự toán kinh phí là 222,396 tỷ đồng.
Nghị quyết ban hành sẽ thay thế Nghị quyết số 52/2021/NQ-HĐND ngày 9/12/2021; số 57/2021/NQ-HĐND ngày 9/12/2021 và bãi bỏ một số quy định trong Nghị quyết số 34/2024/NQ-HĐND ngày 19/4/2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định về mức chi hỗ trợ cho lực lượng Công an xã bán chuyên trách, Bảo vệ dân phố, Đội trưởng, Đội phó đội Dân phòng trên địa bàn tỉnh.
Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Nguyễn Hoài Sơn trình bày tóm tắt Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ học nghề thuộc danh mục nghề khuyến khích đào tạo và hỗ trợ học phí học văn hóa cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học tiếp lên trình độ trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021-2025: "Trên 80 tỷ đồng hỗ trợ học sinh, sinh viên tham gia các chương trình đào tạo học nghề thuộc danh mục khuyến khích đào tạo của tỉnh.
Đồng chí Giám đốc Sở LĐ&TBXH trình bày sự cần thiết về ban hành nghị quyết sửa đổi. Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND được HĐND tỉnh ban hành ngày 9/12/2020 với 15 nghề thuộc 3 nhóm ngành/nghề khuyến khích được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo của tỉnh. Sau 3 năm triển khai thực hiện, Nghị quyết đã thực sự đi vào cuộc sống, đã khuyến khích người học có nguyện vọng, nhu cầu học nghề; góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động có kỹ năng, nâng cao tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ tham gia vào thị trường lao động.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện, một số nội dung tại Nghị quyết không còn phù hợp như: Mức hỗ trợ còn thấp (40% mức lương cơ sở đối với trình độ trung cấp, 50% mức lương cơ sở đối với trình độ cao đẳng); một số quy định chưa đồng bộ với Trung ương; Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND chưa quy định quy trình thực hiện việc chi trả hỗ trợ đào tạo nghề nên trong quá trình triển khai còn gặp một số khó khăn, vướng mắc.
Theo đó, việc ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ học nghề thuộc danh mục nghề khuyến khích đào tạo và hỗ trợ học phí học văn hóa cho học sinh tốt nghiệp THCS học tiếp lên trình độ trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021-2025 là cần thiết.
Theo đó, nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên tham gia các chương trình đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng các ngành/nghề thuộc danh mục khuyến khích đào tạo của tỉnh.
Đối tượng áp dụng là những học sinh, sinh viên có nơi thường trú tại tỉnh Quảng Ninh tốt nghiệp phổ thông học hệ chính quy trình độ trung cấp, cao đẳng tại các cơ sở giáo dục, giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Nội dung của Nghị quyết nêu rõ:
Thay thế cụm từ “có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” nêu tại điểm a, b, khoản 2, Điều 1 bằng cụm từ “có nơi thường trú tại tỉnh Quảng Ninh”.
Sửa đổi, bổ sung điểm a, khoản 6, Điều 1 thành “a. Đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị quyết này được hỗ trợ học phí học các trình độ trung cấp, cao đẳng bằng mức học phí phải nộp và không vượt quá mức hỗ trợ được quy định chi tiết trong bảng kèm theo:
Về thời gian hỗ trợ từ năm học 2024-2025 đến năm học 2027-2028.
Dự kiến tổng kinh phí hỗ trợ là: 80,42 tỷ đồng trong 5 năm (2024-2028), trong đó trung bình: hỗ trợ học phí học nghề trình độ trung cấp là 4,87 tỷ đồng/năm; hỗ trợ học phí học nghề trình độ cao đẳng là 16,45 tỷ đồng/năm.
Giám đốc Sở Y tế Nguyễn Trọng Diện trình bày tờ trình về việc ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng thuộc lĩnh vực y tế.
Giám đốc Sở Y tế cho biết, tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng thuộc lĩnh vực y tế của các cơ sở y tế đã được UBND tỉnh phê duyệt tại các Quyết định số: 4949/QĐ-UBND ngày 30/11/2018; 2538/QĐ-UBND ngày 24/7/2020; 2950/QĐ-UBND ngày 12/10/2022; 1188/QĐ-UBND ngày 11/5/2023. Tuy nhiên, thực tiễn đã phát sinh những vấn đề mới mang tính tổng thể, có tác động lớn đến hoạt động của ngành y tế, ảnh hưởng đến tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng đã được phê duyệt dẫn đến cần thiết phải thực hiện điều chỉnh, bổ sung như: Việc chuẩn bị đầu tư, mở rộng quy mô của một số cơ sở y tế; Sở Y tế đã phê duyệt trên 5.000 danh mục kĩ thuật triển khai mới tại các cơ sở y tế công lập trong toàn tỉnh, góp phần giúp bệnh nhân được khám và điều trị ngay tại địa phương mà không phải chuyển tuyến, giảm chi phí và công sức đi lại cho bệnh nhân; trong thời gian thực hiện chống dịch bệnh Covid-19, các đơn vị được nhận tài trợ, mua sắm nhiều máy móc, thiết bị phục vụ công tác phòng chống dịch, tuy nhiên nhiều máy móc, thiết bị chưa có trong danh mục định mức được phê duyệt…
Theo đó, tờ trình đề xuất ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng cho Văn phòng Sở Y tế và 28 đơn vị trực thuộc Sở Y tế giai đoạn 2024-2027 gồm 4.934 danh mục với 48.667 tài sản (bổ sung 7.083 tài sản tương ứng với 1.294 danh mục mới; điều chỉnh: tăng 10.920 tài sản ở 1.057 danh mục, giảm ở 467 danh mục với 4.744 tài sản trong tiêu chuẩn, định mức đã ban hành).
Đề xuất ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng cho các trạm y tế trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2024-2027, trong đó: Các trạm y tế vùng 1 có 27 danh mục tương ứng 31 tài sản/trạm; các trạm y tế vùng 2 có 27 danh mục tương ứng 31 tài sản/trạm; các trạm y tế vùng 3 có 29 danh mục tương ứng 33 tài sản/trạm; (bổ sung tăng thêm 28 danh mục tương ứng 30 tài sản trong tiêu chuẩn định mức đã ban hành, bổ sung 26 tài sản tương ứng với 24 danh mục mới, điều chỉnh giảm ở 21 danh mục tương ứng 36 tài sản trong tiêu chuẩn định mức đã ban hành).
Đề xuất ban hành điều chỉnh, bổ sung tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng cho Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí gồm: 114 danh mục với 2.437 tài sản (tăng 253 tài sản ở 33 danh mục trong tiêu chuẩn định mức đã ban hành; bổ sung 81 danh mục mới với 1.738 tài sản tương ứng).
Đồng chí Phạm Xuân Đài, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh trình bày Tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết thông qua nhiệm vụ Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2045.
Trình bày tóm tắt Tờ trình, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh nêu rõ, Khu KTT cửa khẩu Bắc Phong Sinh được Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định số 115/2002/QĐ-TTg ngày 13/9/2002 có phạm vi ranh giới bao gồm toàn bộ xã Quảng Đức (huyện Hải Hà). Đến nay, Quy hoạch chung xây dựng KKT cửa khẩu Bắc Phong Sinh chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Để làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch theo quy định, nhiệm vụ Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh được UBND tỉnh giao Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh lập, hoàn thành theo quy định và được Thường trực HĐND tỉnh chấp thuận đưa nội dung về xây dựng Nghị quyết để trình HĐND tỉnh tại Kỳ họp thứ 19.
Nội dung cơ bản của Nghị quyết như sau: Phạm vi lập quy hoạch theo ranh giới thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh với diện tích khoảng 9.373,43ha. Thời gian lập quy hoạch ngắn hạn đến năm 2030, dài hạn đến năm 2045.
Mục tiêu nhằm phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh theo mô hình kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp chế biến; gắn kết chặt chẽ với Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà tạo thành đầu mối tập kết, trung chuyển và xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; cùng với Khu kinh tế cửa khẩu Hoành Mô - Đồng Văn, phụ trợ cho Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái để đảm bảo sự xuyên suốt và duy trì các hoạt động liên tục, thúc đẩy phát triển các Khu kinh tế cửa khẩu. Xây dựng khu đô thị biên giới phía Bắc của huyện Hải Hà với không gian đô thị hài hòa, hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và có bản sắc riêng. Xây dựng khu kinh tế có quốc phòng đảm bảo, có an ninh trật tự, an toàn xã hội vững chắc củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới. Cơ sở pháp lý để triển khai các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết các khu chức năng và các dự án đầu tư xây dựng thuộc Khu kinh tế.
Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Văn Ánh trình bày tóm tắt Tờ trình về đề nghị thông qua Chương trình giám sát của HĐND tỉnh năm 2025.
Thứ nhất, HĐND sẽ giám sát tại các kỳ họp. Trong đó, xem xét các báo cáo theo quy định tại khoản c Điều 59 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, bao gồm: Báo cáo công tác 6 tháng năm 2025 của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp; Báo cáo 6 tháng và năm 2025 của UBND về kinh tế - xã hội; thực hiện ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách nhà nước của địa phương; quản lý tài sản công (năm 2025); công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri; Báo cáo kết quả giám sát chuyên đề của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND tỉnh; Báo cáo về việc thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật và theo đề nghị của Thường trực HĐND tỉnh.
Chất vấn và xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND tỉnh; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh; Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND tỉnh và cá nhân liên quan đến vấn đề thuộc trách nhiệm của mình.
Thứ 2, HĐND tỉnh sẽ giám sát chuyên đề. Nội dung tập trung vào giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật và Nghị quyết HĐND tỉnh về quản lý và sử dụng tài sản công tại các cơ quan nhà nước, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 nhằm đánh giá tình hình công tác quản lý, sử dụng tài sản công trên địa bàn, kịp thời phát hiện những tồn tại hạn chế, đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả và phát huy nguồn lực tài sản công trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đổi mới trong công tác quản lý tài sản công gắn với thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Đối tượng giám sát: UBND tỉnh; các sở, ban, ngành của tỉnh; UBND các huyện, thị xã, thành phố và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Thời gian giám sát trong Quý III năm 2025.
Thứ 3, về giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh. Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh thực hiện theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 và Nghị quyết số 594/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
HĐND tỉnh giao Thường trực HĐND tỉnh cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết về Chương trình giám sát năm 2025 của HĐND tỉnh; chỉ đạo, điều hòa, phân công các Ban của HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết này theo quy định của pháp luật; báo cáo kết quả giám sát tại các kỳ họp HĐND tỉnh năm 2025.
Đồng chí Bùi Thị Hương, Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách trình bày tóm tắt các báo cáo thẩm tra của Ban.
Thẩm tra Báo cáo, Tờ trình và dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2024
Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình với kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, nguyên nhân và các giải pháp đã nêu trong báo cáo. Kết quả thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2024, thể hiện sự đồng hành của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc của các cấp, các ngành với sự nỗ lực, cố gắng, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các LLVT, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo điều hành linh hoạt, quyết liệt, sâu sát và thực tiễn của UBND tỉnh, đã bám sát các Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 20-NQ/TU của Tỉnh ủy, Nghị quyết số 176/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước gắn với chủ đề công tác năm 2024 để tổ chức triển khai thực hiện đạt kết quả.
Về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản nhất trí với nội dung trong dự thảo Nghị quyết, đồng thời quan tâm một số nội dung: Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư từ khu vực ngoài ngân sách; nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách và đầu tư công; tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trên các lĩnh vực, nhất là về quy hoạch, đất đai, quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh quan tâm, chỉ đạo thực hiện sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện một số chính sách đã được HĐND tỉnh thông qua, như Nghị quyết số 201/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 về hỗ trợ di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp quy hoạch đô thị phải di dời trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025; Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 về khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh…
Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công
Theo Tờ trình 1640 và dự thảo Nghị quyết dự kiến trình chủ trương đầu tư đối với 4 dự án, với tổng mức đầu tư 486,4 tỷ đồng, trong đó: 3 dự án nhóm B có giai đoạn thực hiện 2024 -2027; 1 dự án nhóm C giai đoạn thực hiện 2024 -2025, gồm: Dự án đầu tư xây dựng mở rộng Bệnh viện Bãi Cháy; Dự án Xây dựng bổ sung một số hạng mục công trình Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh; (3) Dự án Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Tiên Yên, huyện Tiên Yên; Dự án đầu tư trang thiết bị Nâng cao năng lực cho lực lượng Kiểm lâm tỉnh Quảng Ninh.
Qua thẩm tra, thảo luận và đề nghị làm rõ một số nội dung liên quan đến quy mô đầu tư, tổng mức đầu tư và khả năng cân đối nguồn lực. Trên cơ sở giải trình của các cơ quan chuyên môn, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình với các nội dung giải trình của UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn, đề nghị HĐND tỉnh thông qua đối với 4 dự án nêu trên.
Đồng thời, đề nghị UBND tỉnh trong quá trình triển khai các bước tiếp theo của dự án, chỉ đạo rà soát tiêu chuẩn, định mức máy móc, thiết bị chuyên dùng, diện tích chuyên dùng, phương án xử lý tài sản công làm cơ sở để phê duyệt dự án; đồng thời xây dựng phương án quản lý, khai thác (các thiết bị y tế chuyên dùng; các thiết bị quan trắc mặt đất giám sát cháy rừng) và vận hành để phát huy hiệu quả sau đầu tư. Tính toán phạm vi, quy mô và tổng mức đầu tư trong bước phê duyệt dự án đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả; Không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, tham nhũng, lãng phí trong quá trình thực hiện dự án; Sử dụng thiết kế mẫu xây dựng các công trình có quy mô tương tự để tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian thực hiện; Nghiên cứu rút ngắn thời gian thực hiện đối với các dự án không phải giải phóng mặt bằng, đầu tư trang thiết bị: Dự án Đầu tư xây dựng mở rộng Bệnh viện Bãi Cháy; dự án Đầu tư trang thiết bị Nâng cao năng lực cho lực lượng Kiểm lâm tỉnh Quảng Ninh về công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng giai đoạn 2024-2027 (giai đoạn 1).
Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách cấp tỉnh.
Sau thẩm tra, UBND tỉnh có Báo cáo số 177/BC-UBND ngày 28/6/2024 về giải trình, làm rõ và trên cơ sở tiếp tục rà soát sau thẩm tra đảm bảo các điều kiện để phân bổ, theo đó đề xuất phương án phân bổ chi tiết 2.786,242 tỷ đồng nguồn vốn còn lại trong Kế hoạch trung hạn cho các dự án hoàn thành quyết toán cần bổ sung vốn và bổ sung danh mục và phân bổ chi tiết các dự án mới chưa có trong kế hoạch trung hạn. Đối chiếu với các điều kiện phân bổ theo Luật định, tập thể Ban cơ bản thống nhất với phương án đề xuất như trong Báo cáo số 177/BC-UBND, kèm theo dự thảo Nghị quyết. Đồng thời đề nghị quan tâm một số nội dung sau:
- Đối với 4 dự án, công trình chưa đủ điều kiện phân bổ, nhưng trình đồng thời chủ trương đầu tư tại kỳ họp này, đề nghị HĐND tỉnh chỉ xem xét khi được HĐND tỉnh thông qua chủ trương đầu tư.
- Theo số liệu báo cáo đến thời điểm hiện nay số vốn thực hiện mới đạt 39.967/62.367 tỷ đồng, bằng 67% kế hoạch đã phân bổ, còn phải thực hiện là 22.408 tỷ đồng. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh đánh giá sớm tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn trong giai đoạn 2021-2025, về khả năng thực hiện nguồn vốn và tiến độ thực hiện các dự án trong kế hoạch, xác định nhu cầu các dự án hoàn thành, chuyển tiếp để làm cơ sở xây dựng kế hoạch năm 2025 và xác định quy mô nguồn lực cho giai đoạn này đảm bảo phù hợp khả năng thực hiện và khả năng thu nhất là thu tiền sử dụng đất dành cho đầu tư.
Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về việc Thông qua dự kiến Kế hoạch đầu tư công năm 2025
Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình với nội dung Tờ trình và dự thảo Nghị quyết, đề nghị HĐND tỉnh thông qua làm cơ sở để UBND tỉnh hoàn chỉnh dự kiến Kế hoạch đầu tư công năm 2025 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trước ngày 31/7 theo luật định.
Thẩm tra dự thảo Nghị quyết về việc bổ sung, điều chỉnh, phân bổ dự toán chi ngân sách cấp tỉnh năm 2024 và một số nội dung thuộc lĩnh vực tài chính-ngân sách
Trên cơ sở đối chiếu với các quy định, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình với các nội dung đề xuất trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết và các báo cáo giải trình.
Riêng đối với kinh phí hỗ trợ Công an tỉnh kinh phí mua sắm trang thiết bị, tài sản cố định của 5 lực lượng Công an (103 tỷ đồng), Ban Kinh tế - Ngân sách thấy rằng việc hỗ trợ cho các đơn vị nêu trên là cần thiết nhằm đảm bảo nhiệm vụ an ninh trên địa bàn. Song tại thời điểm thẩm tra, cơ quan trình không có hồ sơ, do vậy chưa đủ cơ sở thẩm tra; đề nghị HĐND tỉnh xem xét khi có đủ điều kiện.
Về cho ý kiến đối với tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng thuộc lĩnh vực y tế theo thẩm quyền: Tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng ngành y tế đã được Sở Y tế, Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điện Uông Bí xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo các điều kiện theo quy định. Do đó, Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh cơ bản thống nhất báo cáo HĐND tỉnh cho ý kiến làm cơ sở để UBND tỉnh ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy móc, thiết bị chuyên dùng thuộc lĩnh vực y tế.
Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về thông qua danh mục dự án, công trình thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, danh mục hủy bỏ các dự án công trình đã được HĐND tỉnh thông qua.
Sau phiên thẩm tra, UBND tỉnh đã có Văn bản giải trình, làm rõ và xin rút đối với 3/20 dự án thu hồi đất, 5/33 dự án chuyển mục đích sử dụng rừng tại Văn bản số 1700/UBND-KTTC ngày 28/6/2024, số 1743/UBND-QHTN&MT ngày 2/7/2024.
Ban Kinh tế - Ngân sách thấy rằng số lượng các dự án trình kỳ này nhiều, với tổng số 108 dự án công trình, trong khi hồ sơ gửi kèm Tờ trình không đầy đủ và đồng thời với tờ trình, việc bổ sung dự án công trình sau thẩm tra sát kỳ họp lớn, không đủ thời gian vật chất khảo sát thực tế và nghiên cứu hồ sơ gây khó khăn cho công tác thẩm tra. Đa phần công tác thẩm tra trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, do vậy UBND tỉnh, Sở TN&MT cùng các địa phương chịu trách nhiệm pháp lý về hồ sơ và hiện trạng thực tế của các dự án, công trình trình HĐND tỉnh.
Qua thẩm tra, thảo luận và trên cơ sở giải trình, tiếp thu làm rõ của các cơ quan trình, các sở, ngành và địa phương, đối chiếu với các quy định, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản thống nhất và đề nghị HĐND tỉnh xem xét, quyết nghị thông qua đối với 17/17 dự án thu hồi đất theo đề xuất; 33/33 dự án chuyển mục đích sử dụng đất; 26/27 dự án quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; điều chỉnh diện tích dự án đối với 8/8 dự án và hủy bỏ danh mục thu hồi và chuyển đất lúa đối với 22/22 dự án.
Ban đề nghị một số nội dung sau:
- Chưa thông qua kỳ này đối với 1 dự án chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với: Dự án Đường trục vào xóm Đèo Thông, xã Đồng Lâm, TP Hạ Long, lý do: các cơ quan chức năng chưa làm rõ diện tích rừng tự nhiên nằm trong ranh giới dự án để đảm bảo thống nhất trong hồ sơ trình.
- Riêng đối với dự án chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác 2,32ha của Dự án hạng mục công trình xây dựng kè và san lấp mặt bằng quỹ đất hoán đổi đất quốc phòng của các tiểu Đoàn thuộc Lữ đoàn 147 để thực hiện Dự án đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, hiện nay chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác đối với thẩm quyền HĐND tỉnh sau khi Điều 248 Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2024. Tuy nhiên theo báo cáo của cơ quan trình, dự án có tính cấp bách để kịp thời bàn giao quỹ đất, đảm bảo cho các hoạt động quốc phòng trên địa bàn tỉnh, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình với đề xuất của UBND tỉnh về đề nghị HĐND tỉnh xem xét thông qua. Trong quá trình triển khai thực hiện, khi phát hiện chưa phù hợp với các Quy định mới được Trung ương ban hành đề nghị UBND tỉnh có trách nhiệm báo cáo lại HĐND tỉnh để điều chỉnh kịp thời theo quy định.
- Đối với danh mục hủy bỏ, đề nghị UBND tỉnh chấn chỉnh các địa phương trong công tác đánh giá, đề xuất thu hồi đất các dự án không sát với nhu cầu phát triển của địa phương, dẫn đến tình trạng vừa thu hồi đã hủy bỏ.
Thẩm tra dự thảo Nghị quyết về quy định khu vực thuộc nội thành của thành phố, thị xã, thị trấn, khu dân cư không được phép chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình về sự cần thiết và danh mục quy định các khu vực không được phép chăn nuôi nêu trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết. Song đây là chính sách có ảnh hưởng đến phạm vi rộng do vậy Ban đề nghị cơ quan soạn thảo quan tâm một số nội dung sau:
- Có báo cáo giải trình và làm rõ một số nội dung như: Về cơ sở và tiêu chí đề xuất các khu vực không được phép chăn nuôi; Lý do không đề xuất ban hành chính sách hỗ trợ di dời theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 80 Luật Chăn nuôi; Đánh giá tính khoa học, thực tiễn của Nghị quyết và tác động của Nghị quyết đến cuộc sống và sinh kế của người dân trong khu vực không được phép chăn nuôi;
- Nghiên cứu bổ sung các khu vực không được phép chăn nuôi đối với khu chung cư, khu tập thể, khu nhà ở xã hội (các khu nhà cao tầng đông dân cư);
- Chỉ đạo các địa phương quan tâm quy hoạch quỹ đất, cơ sở hạ tầng cho chăn nuôi tập trung, để việc di dời cho các hộ về nơi chăn nuôi tập trung, ổn định tăng gia sản xuất.
Thẩm tra dự thảo Nghị quyết quy định một số chính sách đặc thù để khuyến khích phát triển lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Qua thẩm tra, cho thấy nội dung dự thảo Nghị quyết phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển lâm nghiệp; các chính sách hỗ trợ trong dự thảo Nghị quyết được xây dựng trên cơ sở khảo sát thực tế về tình hình điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương và đánh giá kết quả việc thực hiện thí điểm Nghị quyết 337; đồng thời đã có giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế của chính sách đã được ban hành trước đây, với các cơ chế kiểm soát phòng ngừa rủi ro khi thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, đề nghị cơ quan trình tiếp tục nghiên cứu, bổ sung về nguyên tắc hỗ trợ và điều kiện hỗ trợ để đảm bảo chặt chẽ hơn. Các nội dung thẩm tra đã được UBND tỉnh tiếp thu tại Văn bản số 1699/UBND-KTTC ngày 28/6/2024 và hoàn thiện lại dự thảo Nghị quyết. Do vậy, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình và đề nghị HĐND tỉnh xem xét thông qua.
Thẩm tra dự thảo Nghị quyết về quy định định mức lập dự toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Nội dung Tờ trình và dự thảo Nghị quyết cụ thể hóa Điều 4 và Điều 6 của Thông tư số 03/2023/TT-BTC của Bộ Tài chính về: Quy định định mức lập dự toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của cấp tỉnh và cấp cơ sở; Quy định về một số định mức chi quản lý nhiệm vụ khoa học của cấp tỉnh và cấp cơ sở; khả năng cân đối, định mức mới ban hành kinh phí cho lĩnh vực khoa học được đảm bảo. Do vậy, tập thể Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị HĐND tỉnh thông qua.
Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết về việc thông qua nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2045
Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, huyện Hải Hà, được Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định số 115/2002/QĐ-TTg. Song đến nay, mọi hoạt động đầu tư, quản lý đất đai, xây dựng, quy hoạch trong khu vực cửa khẩu này vẫn đang được thực hiện theo Đồ án Quy hoạch chung xây dựng xã Quảng Đức (được duyệt từ năm 2011). Do vậy, việc đề xuất nhiệm vụ Quy hoạch chung khu vực cửa khẩu Bắc Phong Sinh là cần thiết làm cơ sở triển khai lập đồ án Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, đảm bảo theo các quy định pháp luật hiện hành; đồng thời cũng phù hợp với Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/02/2023 phê duyệt quy hoạch tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 1199/QĐ-TTg Quy hoạch cửa khẩu trên tuyên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc và các quy định hiện hành.
Về nội dung nhiệm vụ nêu Tờ trình và dự thảo Nghị quyết: Nội dung chính của nhiệm vụ Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, tỉnh Quảng Ninh, đến năm 2045 cơ bản đảm bảo theo quy định tại Điều 24 Thông tư số 04/2022/TT-BXD ngày 24/10/2022 của Bộ Xây dựng.
Từ những lý do trên, Ban Kinh tế - Ngân sách cơ bản đồng tình và đề nghị HĐND tỉnh thông qua đối với Nghị quyết này làm cơ sở để UBND tỉnh hoàn chỉnh các bước tiếp theo.
Thẩm tra báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản công năm 2023 tại Báo cáo số 168/BC-UBND; báo cáo tình hình, kết quả thực hiện dự toán ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2024. Các nội dung hai báo cáo nêu trên đã được lồng ghép trong báo cáo tình hình KT-XH do vậy đề nghị đại biểu nghiên cứu trong báo cáo chi tiết.
Trưởng Ban Pháp chế HĐND tỉnh Phạm Thị Hồng Hạnh trình bày các báo cáo thẩm tra
Đối với dự thảo Nghị quyết quy định về tặng danh hiệu “Công dân Quảng Ninh ưu tú”, UBND tỉnh đã có văn bản số 1756/UBND-TKTH ngày 3/7/2024 tiếp thu ý kiến thẩm tra của Ban Pháp chế trong việc bổ sung trong dự thảo nghị quyết các nội dung: Quy định nghĩa vụ cá nhân chịu trách nhiệm đối với việc kê khai, báo cáo trung thực thành tích; quy định trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương đề nghị xét tặng danh hiệu cho cá nhân; xóa tên trong Sổ vàng truyền thống của tỉnh khi cá nhân vi phạm.
Đối với dự thảo Nghị quyết quy định tiêu chí thành lập và tiêu chí số lượng thành viên Tổ Bảo vệ an ninh, trật tự; mức chi hỗ trợ, bồi dưỡng, mua sắm và sửa chữa trang thiết bị bảo đảm điều kiện hoạt động đối với Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh UBND tỉnh đã có văn bản tiếp thu ý kiến thẩm tra của Ban Pháp chế, cụ thể: Điều chỉnh lại kết cấu và sửa lại tên dự thảo Nghị quyết; tại khoản 3 Điều 4, bỏ cụm từ "vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn", bổ sung thêm khu vực "hải đảo" để thống nhất với các nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và các văn bản chung của tỉnh; bổ sung nội dung quy định trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền cấp huyện, cấp xã và lực lượng công an cấp xã chịu trách nhiệm toàn diện trong việc xác định đối tượng, tổ chức thực hiện các chế độ hỗ trợ, bồi dưỡng, chính sách; giải trình làm rõ cơ sở để quy định trợ cấp tiền tuất bằng 36 lần mức lương cơ sở; người lo mai táng được nhận tiền bằng 10 lần mức lương cơ sở tại khoản 2 Điều 6.
Đối với dự thảo Nghị quyết về việc phê duyệt bổ sung biên chế sự nghiệp giáo dục mầm non và phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024 và dự thảo Nghị quyết về việc quyết định số lượng hợp đồng lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập do Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2024, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh: Chỉ đạo làm rõ và nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Sở Giáo dục và Đào tạo, các địa phương, nhất là người đứng đầu trong triển khai thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo; quản lý, sử dụng hiệu quả biên chế, không để tình trạng thiếu giáo viên; công khai, minh bạch, khách quan trong công tác tuyển dụng đảm bảo đúng tiêu chuẩn, vị trí việc làm, chú trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; thực hiện tốt chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ viên chức theo quy định; khẩn trương giao hợp đồng lao động sau khi nghị quyết được ban hành; chỉ đạo hướng dẫn thực hiện ký kết hợp đồng theo quy định, định kỳ hàng năm đơn vị sự nghiệp công lập phải rà soát để thực hiện tuyển dụng số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước được cấp có thẩm quyền giao.
Đối với nội dung thẩm tra các báo cáo của UBND tỉnh trình tại kỳ họp, Ban Pháp chế cơ bản đồng tình với báo cáo của UBND tỉnh về kết quả công tác, các nhóm nhiệm vụ giải pháp trong thời gian tới và thống nhất đánh giá 6 tháng đầu năm. Đồng thời đề nghị UBND tỉnh xem xét, chỉ đạo trên các lĩnh vực cụ thể: Về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; Về công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư; công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; về công tác tư pháp, xây dựng chính quyền và cải cách hành chính
Đối với nội dung thẩm tra báo cáo công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thông qua thẩm tra báo cáo công tác và qua giám sát, khảo sát của Ban cho thấy kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm của 3 cơ quan có nhiều điểm nổi bật tích cực và cũng còn một số hạn chế cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới. Qua đó, Ban có một số kiến nghị cụ thể với các ngành: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, tập trung chỉ đạo, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án hành chính, thực hiện đầy đủ trách nhiệm Luật giao trong việc kiến nghị thi hành án, kiến nghị xử lý các trường hợp chậm thi hành án hành chính. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; kiểm sát chặt chẽ việc xử lý tin báo, tố giác tội phạm; bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không xảy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm; hạn chế thấp nhất các vụ án phải trả hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Tích cực kiểm sát các hoạt động tư pháp để có các kiến nghị, kháng nghị đúng và phù hợp theo quy định...
Tòa án nhân dân tỉnh tiếp tục có các giải pháp cụ thể để khắc phục tồn tại, hạn chế được nêu trong báo cáo thẩm tra của Ban, đề ra các giải pháp phòng ngừa các thiếu sót, vi phạm. Không để vụ, việc quá hạn theo luật định, hoặc để lâu, kéo dài do thẩm phán thiếu trách nhiệm. Hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan...
Cục Thi hành án dân sự tỉnh, tăng cường các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức thi hành án dân sự, đảm bảo tỷ lệ thi hành án xong theo Quyết định của Tổng cục thi hành án dân sự; nâng cao tỷ lệ thi hành án đối với các khoản thu cho tổ chức tín dụng và ngân hàng và các vụ việc phức tạp, kéo dài, có số tiền có điều kiện thi hành lớn và các khoản thất thoát, phải thu hồi trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; tăng cường kiểm tra chuyên đề, đột xuất gắn với công tác tái kiểm tra kết quả khắc phục những sai sót đã chỉ ra trong quá trình kiểm tra;…
Trưởng Ban Pháp chế HĐND tỉnh cũng trình bày tờ trình về việc đề nghị ban hành Nghị quyết quy chế bảo vệ bí mật nhà nước của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Theo đó, dự thảo nghị quyết được xây dựng đảm bảo quy trình theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dự thảo Nghị quyết ban hành Quy chế gồm có 4 chương, 16 điều quy định về việc bảo vệ bí mật nhà nước; trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc bảo vệ bí mật nhà nước của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Quy chế này áp dụng đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các ban, các tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh; Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến khai thác, sử dụng bí mật nhà nước của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh Vũ Thị Diệu Linh trình bày báo cáo, thẩm tra các tờ trình, dự thảo nghị quyết thuộc lĩnh vực phụ trách.
Trình bày báo cáo thẩm tra về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm (lĩnh vực văn hóa - xã hội), đồng chí Vũ Thị Diệu Linh, Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với báo cáo của UBND tỉnh.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, UBND tỉnh đã bám sát chỉ đạo của Trung ương, Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có trọng tâm, gắn với thực hiện chủ đề công tác năm về “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh”.
Qua đó đạt kết quả tích cực, nổi bật như: Tổng kinh phí thực hiện an sinh xã hội đạt khoảng 1.144 tỷ đồng (tăng 10% so cùng kỳ năm 2023); chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn trên địa bàn tỉnh tiếp tục có những chuyển biến tích cực so với các năm học trước; chất lượng hoạt động chăm sóc sức khỏe và khám, chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn tỉnh tiếp tục được nâng lên, tổng số lượt khám bệnh từ tuyến tỉnh đến tuyến xã đều tăng (đạt 101% so với cùng kỳ năm 2023); tập trung chỉ đạo, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 30/10/2023 của Tỉnh ủy, Kế hoạch số 383-KH/TU ngày 26/3/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn nội sinh, động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững và chủ đề công tác năm 2024.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế như sau: Điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên của một số cơ sở giáo dục còn khó khăn, chưa kịp thời được bổ sung đáp ứng triển khai Chương trình GDPT 2018. Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng chống ma túy trong và ngoài học đường đối với học sinh, học viên còn khó khăn bất cập và tiềm ẩn nguy cơ cao. Công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh còn khó khăn. Công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế, vật tư, hóa chất của một số đơn vị còn khó khăn, phần nào ảnh hưởng trực tiếp đến công tác khám chữa bệnh cho nhân dân. Tình hình tai nạn lao động, tai nạn thương tích, tai nạn đuối nước và xâm hại tình dục trẻ em tuy đã có nhiều biện pháp kiềm chế tích cực nhưng còn diễn biến phức tạp, tiểm ẩn nguy cơ cao. Qua khảo sát, việc tổ chức triển khai thực hiện một số nghị quyết của HĐND tỉnh thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội tại một số đơn vị, địa phương còn có một số hạn chế, bất cập, vướng mắc nhưng chưa kịp thời được các cơ quan chức năng quan tâm phối hợp rà soát, giải quyết.
Khắc phục những tồn tại trên, Ban đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành, địa phương có giải pháp thực hiện hiệu quả chủ đề công tác năm 2024, trong đó quan tâm giải pháp về “Phát triển văn hóa, con người giàu bản sắc Quảng Ninh” và chỉ đạo rà soát, đánh giá các Nghị quyết của HĐND tỉnh còn hiệu lực thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, nhất là những nghị quyết còn hiệu lực nhưng nội dung không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hoặc những nội dung chính sách của Nghị quyết triển khai có vướng mắc, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Đồng thời tập trung rà soát để kịp thời đề xuất HĐND tỉnh xem xét điều chỉnh, sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 34/2021/NQ-HĐND đảm bảo các điều kiện trước khi bước vào năm học mới 2024-2025.
* Đối với Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ học nghề thuộc danh mục nghề khuyến khích đào tạo và hỗ trợ học phí học văn hóa cho học sinh tốt nghiệp THCS học tiếp lên trình độ trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021-2025, Ban Văn hóa - Xã hội cơ bản đồng tình với nội dung của Dự thảo nghị quyết và đề nghị làm rõ một số nội dung cụ thể về căn cứ pháp lý, về tên và tiêu đề Điều 1, về nội dung sửa đổi.
Về mức hỗ trợ học phí học nghề, Dự thảo nghị quyết đề nghị sửa đổi bổ sung khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND để điều chỉnh mức hỗ trợ học phí các nghề trình độ trung cấp, cao đẳng bằng 100% mức học phí phải nộp nhưng không vượt quá 80% mức trần học phí theo từng nhóm ngành nghề được quy định tại Nghị định số 97/2023/NĐ-CP thay vì áp dụng hỗ trợ theo mức lương cơ sở như quy định tại Nghị quyết số 310 (bằng 40%-50% mức lương cơ sở/tháng). Ban đề nghị so sánh, làm rõ sự phù hợp khi áp dụng mức hỗ trợ theo mức trần học phí theo Nghị định số 97/2023/NĐ-CP thay thế mức lương cơ sở để đảm bảo quy định pháp luật và quyền lợi cho học sinh, sinh viên.
Về việc bổ sung quy định về trình tự, thủ tục hỗ trợ, Dự thảo nghị quyết đề nghị bổ sung quy trình thủ tục hỗ trợ trong khi Nghị quyết số 310/2020/NQ-HĐND đã được triển khai thực hiện từ năm 2021 đến nay. Đây là nội dung quy định thủ tục hành chính cần có đánh giá tác động cụ thể và lấy ý kiến của cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh kiểm soát thủ tục hành chính; lấy ý kiến rộng rãi của các địa phương, đơn vị trực tiếp thực hiện. Ban đề nghị cơ quan trình làm rõ lý do, căn cứ đề nghị bổ sung nội dung trên.
Tại Điều 19 Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định về hồ sơ thủ tục thực hiện miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ tiền đóng học phí đối với người học tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, 11/15 ngành nghề thuộc danh mục thu hút của tỉnh tại Dự thảo nghị quyết đã được quy định hỗ trợ theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP. Ban Văn hóa - Xã hội đề nghị xem xét áp dụng trình tự, hồ sơ thủ tục hỗ trợ đã được quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP để đảm bảo tính đồng bộ, tránh phát sinh thủ tục đối với người học.
* Đối với Dự thảo nghị quyết về việc ban hành Quy chế bảo vệ bí mật nhà nước của HĐND tỉnh, kèm theo Tờ trình số 43/TTr-HĐND ngày 20/5/2024 của Ban Pháp chế HĐND tỉnh, Ban Văn hóa - Xã hội nhận thấy việc ban hành Nghị quyết mới, thay thế Nghị quyết số 17/2021/NQ-HĐND là cần thiết, có căn cứ pháp lý, phù hợp với thực tiễn và thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND tỉnh.
Về nội dung Dự thảo nghị quyết, qua thẩm tra Ban Văn hóa - Xã hội nhận thấy việc xây dựng Dự thảo nghị quyết đảm bảo đúng trình tự, thủ tục đối với nghị quyết có nội dung quy định tại khoản 1, Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Nghị quyết ban hành Quy chế gồm có 4 chương, 16 điều, được xây dựng kết cấu, bố cục chặt chẽ, nội dung đảm bảo theo yêu cầu của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ban Văn hóa - Xã hội cơ bản thống nhất với nội dung dự thảo Nghị quyết.
Tuy nhiên, Ban đề nghị bỏ cụm từ “về việc” tại tiêu đề của dự thảo nghị quyết và hiệu lực thi hành của Nghị quyết từ ngày 21/7/2024.
* Chiều nay, kỳ họp thứ 19 HĐND tỉnh sẽ tiếp tục với phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường.
Nhóm PV
Liên kết website
Ý kiến ()