Tất cả chuyên mục
Thứ Hai, 23/12/2024 05:04 (GMT +7)
Kỳ họp thứ 9: HĐND tỉnh nghe báo cáo, tờ trình
Thứ 5, 07/07/2022 | 09:03:42 [GMT +7] A A
Sau phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, các đại biểu HĐND tỉnh khóa XIV nghe các báo cáo, tờ trình, dự thảo các Nghị quyết. Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, chủ trì.
Đồng chí Nguyễn Tường Văn, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh: "Phấn đấu tốc độ tăng trưởng (GRDP) cả năm 2022 đạt trên 11%".
Trong báo cáo, Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, quyết tâm, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, sâu sát, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, thích ứng nhanh với tình hình thực tiễn của tỉnh; sự nỗ lực, cố gắng, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh Quảng Ninh đã giành được những kết quả tích cực, quan trọng. Thực hiện thành công Chiến lược vắc xin, với tỷ lệ cao nhất cả nước đã tạo hiệu quả rõ rệt, giảm sâu các ca mắc mới, đưa nhịp sống sôi động trở lại và nhanh chóng phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội và giữ vững đà tăng trưởng GRDP 2 con số. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 10,66%, cao hơn 2,64 điểm % so với tốc độ tăng cùng kỳ. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 53% dự toán năm, tăng 21% cùng kỳ. Công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh được chú trọng triển khai, niềm tin của doanh nghiệp đối với chính quyền được củng cố. Công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, đất đai, tài nguyên và môi trường được tăng cường; công tác GPMB, triển khai các dự án trọng điểm, động lực, các dự án trong KKT, KCN được tập trung đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ. Công tác chăm lo, bảo đảm đời sống nhân dân được chú trọng. An sinh xã hội được bảo đảm. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, về xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai gắn với thực hiện Nghị quyết 06 ngày 15/5/2021 của Tỉnh ủy. Các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, lao động, việc làm, văn hóa xã hội, thể thao, tiếp tục được quan tâm, đầu tư, tạo bước chuyển mới về chất lượng. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo quốc gia được giữ vững. Hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh, tăng cường mở rộng.
Trong 6 tháng cuối năm 2022, dự báo có nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu, tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp để phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 đề ra. Trong đó, phấn đấu tốc độ tăng trưởng (GRDP) cả năm đạt trên 11%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn không thấp hơn 52.600 tỷ đồng, theo đó: Quý III phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng 10,96%; quý IV đạt tăng trưởng 12,82%; thu ngân sách trong 6 tháng cuối năm đạt trên 25.400 tỷ đồng; thu hút khách du lịch cả năm đạt trên 10 triệu lượt khách; thu hút vốn FDI đạt ít nhất 1,5 tỷ USD.
Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2022, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Giữ vững thành quả phòng chống dịch; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chiến lược tổng thể thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19; kiên trì giữ vững sức sản xuất của các trụ cột kinh tế, trọng tâm là: Phát huy tối đa vai trò trụ cột của khu vực công nghiệp - xây dựng trong tăng trưởng kinh tế; tiếp tục phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tạo điều kiện tốt nhất, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc ngành Than, ngành Điện; cung ứng đủ nguồn than cho sản xuất điện, không để thiếu điện phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống Nhân dân; tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình phục hồi ngành du lịch; tập trung tháo gỡ khó khăn trong lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo đảm không để đứt gãy chuỗi cung ứng phục vụ sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh.
Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách, tăng cường các biện pháp quản lý thu, khai thác, nuôi dưỡng các nguồn thu, chống thất thu thuế, chống chuyển giá, trốn thuế; triển khai quyết liệt các giải pháp tăng tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công, gắn với khối lượng hoàn thành và nâng cao chất lượng công trình, dự án, đảm bảo tiến độ giải ngân vốn. Phấn đấu đến hết quý III/2022 giải ngân đạt tối thiểu 80% kế hoạch vốn, đến 31/12/2022 giải ngân 100% kế hoạch vốn bố trí dự toán đầu năm. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược; gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển con người, xây dựng văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trên các lĩnh vực, nhất là về quy hoạch, đất đai, xây dựng, đô thị, tài nguyên môi trường, khoáng sản. Tiếp tục thực hiện đồng bộ chương trình kiểm tra, giám sát, thanh tra; chỉ đạo triển khai thực hiện các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất trên các lĩnh vực nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực. Bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh.
Đồng chí Nguyễn Văn Hồi, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh trình bày báo cáo kết quả công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền 6 tháng đầu năm 2022 và tổng hợp ý kiến kiến nghị của cử tri và nhân dân.
Trong 6 tháng năm 2022, Ủy ban MTTQ và các tổ chức thành viên các cấp trong tỉnh tích cực phối hợp trong tuyên truyền các hoạt động mừng Đảng - mừng Xuân, kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị của đất nước, của tỉnh; chủ động triển khai tuyên truyền, phổ biến và vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên, nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh bằng nhiều hình thức đa dạng, đồng bộ theo hướng thiết thực, hiệu quả, tạo sự đồng thuận để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình dịch Covid-19, MTTQ và các tổ chức thành viên đã rất chủ động trong phối hợp tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nghiêm khuyến cáo của ngành y tế theo từng giai đoạn phòng, chống dịch; tiếp tục vận động, tiếp nhận, quản lý và phân phối sử dụng hiệu quả quỹ phòng, chống dịch Covid-19. Đồng thời tiến hành giám sát toàn diện việc thực hiện chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế - xã hội thông qua các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do MTTQ và các tổ chức thành viên chủ trì và phát động. Đặc biệt, đã phối hợp đánh giá, tổng kết phong trào thi đua xây dựng “Xã, phường, thị trấn văn minh” năm 2021 và triển khai phong trào năm 2022; hoàn thành việc lấy ý kiến của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới đối với TP Hạ Long, huyện Vân Đồn; phối hợp tổ chức thẩm định cấp tỉnh xét công nhận cho các xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao.
Bên cạnh đó, MTTQ và các tổ chức thành viên đã tập trung huy động các nguồn xã hội cùng với chính quyền các cấp chăm lo cho công tác an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt 6 nhiệm vụ của MTTQ góp phần tổ chức thành công cuộc bầu cử Trưởng thôn, bản khu phố nhiệm kỳ 2022 - 2025, điển hình như: Chủ trì công tác hiệp thương nhân sự; công tác kiểm tra, giám sát; công tác vận động cử tri đi bầu cử; phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, công tác tập huấn, hướng dẫn bầu cử, tham gia các tố bầu cử; đảm bảo cho cuộc bầu cử diễn ra an toàn, đúng pháp luật và thực sự là ngày hội, đợt sinh hoạt lớn của toàn dân tham gia xây dựng chính quyền.
Thực hiện tốt chức năng giám sát của MTTQ nhất là hoàn thành cơ bản 3 chương trình giám sát; đặc biệt là chương trình giám sát cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử tại nơi làm việc và nơi cư trú đối với Giám đốc, Phó Giám đốc các Sở, ban, ngành và tương đương trong tỉnh thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát năm 2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ tỉnh giao trong công tác tuyên truyền, vận động và giám sát việc thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án đường ven sông tốc độ cao từ TX Quảng Yên đến TX Đông Triều; giám sát việc thực hiện khắc phục các hạn chế, tồn tại đối với Dự án Cao tốc Vân Đồn - Móng Cái.
MTTQ các cấp đã tập trung triển khai tốt việc lấy ý kiến tham gia góp ý các Dự án Luật, các Văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh, điển hình là lấy ý kiến góp ý rộng rãi trong các tổ chức thành viên và nhân dân đối với Dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Các hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp được thực hiện đảm bảo công khai, dân chủ, đúng quy định của pháp luật và thường xuyên được đổi mới để nâng cao chất lượng các Hội nghị tiếp xúc cử tri.
Tại kỳ họp này, ngoài ý kiến kiến nghị của cử tri và nhân dân trong tỉnh thông qua các hội nghị tiếp xúc cử tri trước kỳ họp, qua nắm tình hình nhân dân, dư luận xã hội và phản ánh của các tổ chức thành viên, các cơ quan truyền thông, MTTQ tỉnh tổng hợp kiến nghị trước Kỳ họp thứ 9, HĐND tỉnh khoá XIV xem xét giải quyết một số nhóm vấn đề: Quản lý Nhà nước về quy hoạch, đầu tư xây dựng; quản lý Nhà nước và các chính sách trong bồi thường, giải phóng mặt bằng; quản lý Nhà nước về phát triển và giữ vững thương hiệu Du lịch Quảng Ninh...
Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, trình bày tóm tắt các tờ trình có liên quan đến lĩnh vực đầu tư công.
* Tờ trình đề nghị phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công vốn ngân sách tỉnh Quảng Ninh.
Cụ thể gồm 4 dự án: Dự án sửa chữa, nâng cấp trạm bơm tiêu Đạm Thủy 1 (TX Đông Triều); Dự án hệ thống điện chiếu sáng: Đường dẫn cầu Bắc Luân II (phường Hải Hòa, TP Móng Cái), đoạn tuyến Quốc lộ 18, đoạn qua địa phận huyện Hải Hà; Dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 279 đoạn từ Km0+00 đến Km 8+600; Dự án hải đội dân quân thường trực, Bộ CHQS tỉnh Quảng Ninh.
Đồng chí nêu rõ, quá trình triển khai xây dựng, thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư các dự án, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở chuyên ngành lập chủ trương đầu tư các dự án, giao Sở KH&ĐT thẩm định chủ trương đầu tư, nguồn vốn và khả năng cân đối vốn các dự án đã đủ điều kiện đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công.
* Tờ trình đề nghị phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công.
Trên cơ sở kết quả rà soát, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành nghị quyết về điều chỉnh chủ trương đầu tư cho 6 dự án đầu tư công, cụ thể:
- Dự án xây dựng tuyến kè, san nền từ bưu điện đến cầu Hái Nạc, khu quy hoạch kinh tế cửa khẩu Hoành Mô: Điều chỉnh thời gian thực hiện dự án từ 2019-2020 thành 2019-2022.
- Dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường từ xã Hải Tiến-hồ Tràng Vinh đến Trạm biên phòng Pò Hèn (xã Hải Sơn, TP Móng Cái): Điều chỉnh tổng mức đầu tư từ 165.000 triệu đồng thành 179.511 triệu đồng và điều chỉnh thời gian thực hiện dự án từ 2019-2021 thành 2019-2022.
- Dự án cải tạo, nâng cấp đường tỉnh 341 (QL18C) từ Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái đến Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh - giai đoạn 2: Điều chỉnh điểm đầu tuyến từ Km103+340, QL18C thành Km103+600, QL18C.
- Dự án đường dẫn cầu Bến Rừng (địa phận tỉnh Quảng Ninh): Điều chỉnh phạm vi xây dựng và điều chỉnh thời gian thực hiện dự án từ 2023-2025 thành 2022-2024.
- Dự án hỗ trợ GPMB tuyến đường ven biển đoạn trên địa bàn tỉnh: Điều chỉnh thời gian thực hiện dự án từ hoàn thành trong năm 2021 sang hoàn thành trong năm 2022.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình Bệnh viện lão khoa tỉnh: Điều chỉnh quy mô đầu tư, danh mục trang thiết bị đầu tư của bệnh viện; điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án từ 429.000 triệu đồng thành 413.028 triệu đồng; điều chỉnh thời gian thực hiện dự án từ 2019-2022 thành hoàn thành trong tháng 6/2023.
* Tờ trình về điều chỉnh bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn, giai đoạn 2021-2025 vốn ngân sách cấp tỉnh.
Trên cơ sở rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn năm 2021-2025, UBND tỉnh đề nghị bổ sung 2.434.663 triệu đồng cho các dự án. Như vậy, tổng nguồn vốn dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của tỉnh sau điều chỉnh, bổ sung là 94.589.663 triệu đồng, trong đó vốn ngân sách cấp tỉnh sau điều chỉnh là 63.305.663 triệu đồng, nguồn vốn ngân sách cấp tỉnh còn lại chưa phân bổ sau điều chỉnh là 27.019.663 triệu đồng.
Số vốn điều chỉnh sẽ dành để bố trí tăng vốn cho 1 chương trình, 4 dự án đã có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 là 225.900 triệu đồng; bổ sung danh mục và kế hoạch đầu tư công trung hạn cho 4 dự án hoàn thành đã được phê duyệt quyết toán là 10.331 triệu đồng; bổ sung danh mục và kế hoạch đầu tư công trung hạn cho 14 dự án khởi công mới là 4.599.812 triệu đồng.
Đối với nguồn vốn còn lại chưa phân bổ là 22.183.621 triệu đồng, dự kiến sẽ dành 16.183.621 triệu đồng cân đối cho các chương trình, dự án khởi công mới giai đoạn 2023-2025 cần hoàn thiện thủ tục đầu tư và dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 là 6.000.000 triệu đồng.
* Tờ trình về điều chỉnh bổ sung, phân bổ kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách tỉnh năm 2022 và điều chỉnh phương án sử dụng nguồn tăng thu, kết dư ngân sách cấp tỉnh năm 2021.
Trên cở sở rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công năm 2022, tổng nguồn vốn đầu tư công bổ sung, điều chỉnh là 1.278.691 triệu đồng.
Trong tờ trình cũng nêu rõ phương án phân bổ nguồn vốn bổ sung, điều chỉnh. Cụ thể: Phân bổ 150.000 triệu đồng cho Dự án Mở rộng đường 334 đoạn từ sân golf Ao Tiên đến nút giao giữa đường 334 và đường vào công viên phức hợp Khu kinh tế Vân Đồn; phân bổ 165.000 triệu đồng cho Chương trình tổng thể phát triển bền vững KT-XH, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo gắn với xây dựng NTM, NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025 để hoàn thành chương trình NTM năm 2022; hỗ trợ các địa phương 2 dự án với số vốn là 570.000 triệu đồng.
Đối với phân bổ chi tiết nguồn vốn còn lại (478.147 triệu đồng) chưa phân bổ cho các dự án sau khi được phê duyệt quyết toán: Phân bổ 165.937 triệu đồng cho 29 dự án hoàn thành phê duyệt quyết toán; phân bổ 244.811 triệu đồng cho 24 dự án hoàn thành đang làm thủ tục quyết toán.
Về việc điều chỉnh phương án sử dụng nguồn tăng thu, kết dư ngân sách cấp tỉnh năm 2021 là 1.463.287 triệu đồng, trên cơ sở tiến độ triển khai, nhu cầu vốn và khả năng giải ngân các dự án, UBND tỉnh đề xuất điều chỉnh phương án sử dụng nguồn vốn tăng thu, kết dư ngân sách cấp tỉnh năm 2021 đã được HĐND tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 99/NQ-HĐND ngày 31/5/2022 như sau:
- Điều chỉnh nội dung Điều 2 Nghị quyết số 99/NQ-HĐND ngày 31/5/2022 của HĐND tỉnh thành: “Phương án sử dụng nguồn tăng thu, kết dư ngân sách cấp tỉnh năm 2021 (1.463.287 triệu đồng) để thực hiện các công trình phục vụ lợi ích công cộng (y tế, giáo dục,...) tại quỹ đất khu vực Nhà máy sàng tuyển than Nam Cầu Trắng, TP Hạ Long”.
Trường hợp một số dự án trong phương án điều chỉnh bổ sung, phân bổ đến ngày họp HĐND chưa kịp hoàn thiện các thủ tục đầu tư, UBND tỉnh đề xuất chuyển vào dự nguồn phân bổ để trình HĐND tỉnh phân bổ tại kỳ họp gần nhất.
Đồng chí Trần Văn Lâm, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Tài chính trình bày Tờ trình về việc sửa đổi, bổ sung một số loại phí và lệ phí thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh.
Đối với nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ lệ phí đăng ký cư trú
Theo Thông tư mới của Bộ Tài chính có nội dung sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến lệ phí đăng ký cư trú. Mặt khác, Luật Cư trú năm 2020 quy định phương thức quản lý cư trú bằng số định danh cá nhân và không quy định việc đăng ký, quản lý cư trú bằng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú (ngừng việc cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú cho công dân).
Như vậy, một số quy định về lệ phí đăng ký cư trú theo Nghị quyết số 62/2017/NQ-HĐND không còn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Về mức thu lệ phí đăng ký cư trú, theo thống kê của Công an tỉnh, số lượng hồ sơ đã giải quyết cư trú thu lệ phí trên địa bàn tỉnh từ năm 2019 - 2021 là 79.993 hồ sơ, số tiền thu được là trên 342 triệu đồng, đã nộp ngân sách nhà nước 100%.
Qua khảo sát, thu nhập bình quân đầu người/tháng của tỉnh Quảng Ninh năm 2020 là trên 4,5 triệu đồng/người/tháng; năm 2021 là 3,99 triệu đồng/người/tháng. So sánh với một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như: Hải Phòng, Hải Dương, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Quảng Ninh là tỉnh có thu nhập bình quân đầu người/tháng tương đối cao.
Do đó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và cơ quan, tổ chức liên quan trong việc triển khai thực hiện, đồng thời bảo đảm sự hài hòa giữa các tỉnh lân cận, có đặc điểm tương đồng, UBND tỉnh đề xuất mức thu lệ phí cư trú mới cao hơn so với mức thu tại Nghị quyết 62/2017/NQ-HĐND. Đồng thời, bãi bỏ yêu cầu cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú; bổ sung 2 trường hợp miễn thu lệ phí là điều chỉnh lại địa chỉ, thông tin do thay đổi địa giới hành chính theo chủ trương của Nhà nước và sai sót thông tin do lỗi của cơ quan quản lý cư trú.
Về lệ phí trước bạ đối với ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống nộp lệ phí lần đầu (bao gồm cả xe con pick-up) trên địa bàn tỉnh thuộc lĩnh vực Giao thông vận tải.
Hiện nay, mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống nộp lệ phí lần đầu của Quảng Ninh là 12% bằng với mức thu của TP Hải Phòng, Hà Nội.
Với cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ ngày càng được hoàn thiện, nâng cấp, đáp ứng được nhu cầu tăng số lượng phương tiện nên UBND tỉnh đề xuất giữ nguyên mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống nộp lệ phí lần đầu (bổ sung cả xe con pick-up) là 12%.
Về nội dung sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một số nội dung về lệ phí hộ tịch thuộc lĩnh vực Tư pháp
Tờ trình nêu rõ, trước đây, đối tượng nộp lệ phí hộ tịch được quy định tại Nghị quyết số 62/2017/NQ-HĐND của HĐND tỉnh (căn cứ Thông tư số 250/2016/TT-BTC). Tuy nhiên, hiện nay, Thông tư số 250/2016/TT-BTC đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Thông tư số 85/2019/TT-BTC. Đề phù hợp với những thay đổi trên, tờ trình nhấn mạnh cần thiết sửa đổi nội dung quy định về đối tượng nộp lệ phí hộ tịch, là “Người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các công việc về hộ tịch theo quy định của pháp luật, không bao gồm việc cấp bản sao trích lục hộ tịch”.
Về danh mục lệ phí đăng ký hộ tịch tại UBND cấp xã, qua rà soát nội dung quy định về căn cứ xác định mức thu lệ phí hộ tịch tại Điểm c Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 85/2019/TT và bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch được Bộ Tư pháp công bố trên cổng thông tin điện tử, tờ trình khẳng định cần thiết bãi bỏ lệ phí hộ tịch áp dụng tại UBND cấp xã đối với loại việc: “Ghi vào số hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” được quy định tại điểm 21.1 phần VI, Phụ lục I của Nghị quyết số 62/2017/NQ-HĐND.
Đồng chí Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình bày tóm tắt tờ trình về việc ban hành Nghị quyết thông qua Đề án thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025.
Quan điểm xây dựng Nghị quyết: Xây dựng nông thôn mới gắn với việc thực hiện theo Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; đồng thời có cập nhật quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 19-NQ/TU ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong hệ thống chính trị; nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh: có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo định hướng xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông dân văn minh, nông thôn hiện đại tiệm cận với khu vực đô thị.
Về mục tiêu cụ thể, đến hết năm 2022, tỉnh Quảng Ninh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Có 100% đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, có 2/7 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (Đầm Hà và Tiên Yên); có ít nhất 49/98 xã (đạt 50%) số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 25/98 xã (đạt 25,5%) số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Có ít nhất 280/458 thôn (bằng 61%) số thôn thuộc các xã khu vực biên giới, vùng núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới.
Từ năm 2023 đến năm 2025: Ở cấp huyện, có 5/7 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, bằng 71,4% số huyện trên địa bàn tỉnh (tăng 3 huyện: Vân Đồn, Cô Tô và huyện Hải Hà). Ở cấp xã, có 55/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, bằng 56,1% số xã trên địa bàn tỉnh (tăng 6 xã); có 31/98 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, bằng 31,6% số xã trên địa bàn tỉnh (tăng 6 xã);
Thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng 2 lần so với năm 2020. Phát triển thêm 10 sản phẩm OCOP Quảng Ninh tiềm năng đạt 5 sao cấp quốc gia, trong đó có tối thiểu 5 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn 5 sao cấp quốc gia; phát triển mới ít nhất 10 tổ chức kinh tế/năm tham gia chương trình OCOP; đảm bảo 100% sản phẩm OCOP (trừ các sản phẩm thuộc lĩnh vực dịch vụ, du lịch) được dán tem điện tử, hoặc có mã số mã vạch truy xuất nguồn gốc.
Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ và giải pháp triển khai thực hiện; ngân sách thực hiện theo Nghị quyết số 50/NQ-HĐND ngày 13/11/2021 của HĐND tỉnh. Đồng thời, lồng ghép các chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, đào tạo nghề cho lao động nông thôn... trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Trần Như Long trình bày tờ trình về việc đề nghị thông qua danh mục các dự án thu hồi đất để thực hiện các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh đợt 2 năm 2022.
Trình bày tờ trình 3799/TTr-UBND của UBND tỉnh ngày 29/6/2022, đồng chí Trần Như Long nêu rõ: Ngày 17/6/2022, UBND tỉnh đã có tờ trình số 3799/TTr-UBND "về việc đề nghị thông qua danh mục các dự án thu hồi đất để thực hiện các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh đợt 2 năm 2022 trình HĐND tỉnh khóa XIV - Kỳ họp giữa năm 2022”, trong đó TX Quảng Yên không có danh mục công trình thu hồi đất; huyện Hải Hà có 4 công trình, dự án trình thu hồi đất với diện tích thu hồi là 0,69 ha.
Sau đó, ngày 27/6/2022, UBND TX Quảng Yên đề nghị bổ sung 4 công trình, dự án với tổng diện tích 4,67ha tại Tờ trình số 69/TTr-UBND "Về việc đề nghị phê duyệt danh mục công trình, dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, danh mục công trình, dự án Nhà nước thu hồi đất, dự án chuyển mục đích sử dụng rừng năm 2022 của TX Quảng Yên”; UBND huyện Hải Hà đề nghị bổ sung 1 công trình, dự án với diện tích 3,56 ha tại Tờ trình số 58/TTr-UBND ngày 29/6/2022 “Về việc thông qua danh mục dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng và danh mục các dự án nhà nước thu hồi đất (bổ sung đợt 2) năm 2022. Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đề nghị bổ dung danh mục thu hồi đất trình cho 5 công trình, dự án của 2 địa phương nói trên tại Tờ trình số 253/TTr-TNMT- QHKH ngày 29/6/2022.
UBND tỉnh báo cáo đề nghị HĐND tỉnh xem xét thông qua danh mục dự án thu hồi đất để thực hiện các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh đợt 2 năm 2022 (bổ sung) như sau: Tổng số dự án: 5 công trình, dự án với tổng diện tích đất thu hồi là 8,23ha. Trên địa bàn TX Quảng Yên bổ sung 4 công trình, dự án với tổng diện tích 4,67ha; trên địa bàn huyện Hải Hà bổ sung 1 công trình, dự án với diện tích 3,56 ha.
Đồng chí Lê Thành Cung, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Tư pháp trình bày tóm tắt tờ trình về một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022 - 2025.
Giai đoạn 2017 - 2021, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trên địa bàn tỉnh đã được các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị ngày càng quan tâm, triển khai tương đối toàn diện, đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
Tuy nhiên, công tác PBGDPL vẫn còn một số hạn chế như:Tình trạng vi phạm pháp luật, phạm tội do thiếu hiểu biết pháp luật vẫn còn xảy ra; nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, nhân dân còn hạn chế; hoạt động PBGDPL cho những đối tượng đặc thù theo quy định của Luật PBGDPL chưa được tiến hành thường xuyên, nhất là tại những nơi có điều kiện KT-XH khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nguồn lực tài chính cho công tác PBGDPL chưa thực sự tương xứng với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của công tác này... Mặt khác, đến nay tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa có một văn bản mang tính quy phạm pháp luật quy định một cách hệ thống các biện pháp này để triển khai đồng bộ, hiệu quả... Do vậy, việc ban hành Nghị quyết của HĐND tỉnh để quy định các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh, trong đó có quy định về trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương là hết sức cần thiết.
Theo dự thảo Nghị quyết, mục đích của Nghị quyết là đề xuất các mục tiêu, biện pháp và nguồn lực thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh, gắn với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật; góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển KT-XH của tỉnh và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Một số mục tiêu cơ bản của Nghị quyết như sau: Trên 95% đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, cấp huyện, tuyên truyền viên pháp luật cấp xã, cán bộ làm công tác pháp chế, hòa giải viên ở cơ sở thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật mới; Trên 95% cán bộ, chiến sỹ, công chức, viên chức thường xuyên được trang bị kiến thức pháp luật theo lĩnh vực hoạt động chuyên ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; 100% các trường học đều triển khai chương trình PBGDPL theo chương trình giáo dục chính khóa và hoạt động ngoại khóa; 100% các văn bản quy phạm pháp luật của HĐND tỉnh, UBND tỉnh được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến các đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh của văn bản; 100% các địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh được PBGDPL liên quan; trên 80% các đối tượng đặc thù theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được phổ biến, giáo dục pháp luật; trên 85% nhân dân trên địa bàn tỉnh được PBGDPL thông qua các hình thức phù hợp.
Kinh phí thực hiện công tác PBGDPL giai đoạn 2022 - 2025 được bảo đảm từ nguồn ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách hiện hành và các nguồn tài trợ, viện trợ, nguồn huy động hợp pháp khác từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Ngân sách tỉnh bố trí kinh phí cho hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh và công tác PBGDPL của các sở, ban, ngành, Ủy ban MTTQ tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh, các cơ quan, tổ chức có thành viên tham gia Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh. Các huyện, thị xã, thành phố căn cứ vào đặc điểm tình hình, điều kiện cụ thể của địa phương bố trí nguồn kinh phí để tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL tại địa phương mình.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hà, Ủy viên UBND tỉnh, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao trình bày Tờ trình đề nghị đặt tên đường, tên phố trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh gồm: Vân Đồn, Quảng Yên, Móng Cái, Hạ Long và Uông Bí.
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố: Vân Đồn, Quảng Yên, Uông Bí, Hạ Long, Móng Cái phát triển mạnh. Diện mạo đô thị có nhiều thay đổi. Công tác xây dựng và chỉnh trang đô thị đã có những chuyển biến tích cực. Kiến trúc và cảnh quan đô thị ở nhiều địa bàn dân cư đã hình thành. Các tuyến đường, tuyến phố được chỉnh trang, đầu tư vỉa hè, điện chiếu sáng.
Theo đó, tờ trình đề nghị đặt tên cho 23 tuyến đường, 105 tuyến phố; điều chỉnh 9 tuyến đường (2 tuyến đường điều chỉnh hướng tuyến; 7 tuyến đường điều chỉnh nối dài), điều chỉnh nối dài 10 tuyến phố trên địa bàn 5 huyện, thị xã, thành phố gồm: Vân Đồn, Quảng Yên, Móng Cái, Hạ Long, Uông Bí.
Đề xuất này được đưa ra nhằm thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính trên địa bàn. Đây cũng là nguyện vọng của các tổ chức, cá nhân và người dân sinh sống tại khu vực tuyến đường, phố chưa có tên. Việc đặt tên đường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao dịch kinh tế, văn hóa - xã hội, góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế.
Cho đến nay, UBND các huyện, thị xã, thành phố này đã xây dựng hồ sơ đề nghị đặt tên đường, tên phố. Sở Văn hoá và Thể thao đã tiến hành khảo sát thực tế và chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan thẩm định hồ sơ theo quy định. Hội đồng Tư vấn đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh cũng đã tổ chức họp xem xét, tư vấn hồ sơ đặt tên đường, tên phố và công trình công cộng của 5 địa phương trên.
Quy trình lập hồ sơ đảm bảo đúng trình tự theo quy định Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ và Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Đồng chí Vũ Thanh Tùng, Phó Giám đốc Công an tỉnh trình bày Tờ trình về Quy định diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Theo tờ trình, Nghị quyết này quy định về diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đối tượng áp dụng là công dân có nhu cầu đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ; các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong việc thực hiện Nghị quyết này.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết, các đơn vị đã khảo sát và nhận thấy, điều kiện diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ, theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, do Cục Thống kê tỉnh và Sở Xây dựng cung cấp: Tính đến ngày 1/4/2019, toàn tỉnh còn 13.450 hộ gia đình có nhà ở có diện tích bình quân đầu người dưới 8m2 (tỷ lệ 3,9%); có 9.000 hộ gia đình có diện tích nhà ở bình quân đầu từ 8 - 9m2 (tỷ lệ 2,6%). Như vậy, tổng số hộ gia đình có nhà ở theo diện tích nhà ở bình quân đầu người dưới 9m2 là 22.450 hộ.
Mặt khác, qua tham khảo một số tỉnh như Bắc Ninh, Hải Dương, Tuyên Quang, Nghệ An, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bắc Kạn, Cao Bằng, Vĩnh Long, Hậu Giang, Đắk Lắk..., HĐND tỉnh đều đã ban hành Nghị quyết quy định về điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ là 8m2 sàn/người; các tỉnh Ninh Bình, Hà Giang là 10m2/sàn người.
Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp có nhà cho thuê, mượn, ở nhờ được xây dựng trước thời điểm Nghị quyết số 274/NQ-HĐND ngày 9/7/2020 của HĐND tỉnh có hiệu lực thi hành; UBND tỉnh báo cáo đề xuất HĐND tỉnh xem xét, quy trình, điều kiện diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh như sau: Giai đoạn 1 (từ khi Nghị quyết này có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2025): diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là 08m2 sàn/người; Giai đoạn sau năm 2025 là 10m2 sàn/người.
Nghị quyết được ban hành cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho số công dân có nhu cầu đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình (phải thuê, mượn, ở nhờ) ổn định cuộc sống yên tâm công tác, học tập, lao động... giúp cho tỉnh thu hút thêm nguồn nhân lực từ nơi khác đến, góp phần tăng quy mô dân số; đồng thời từng bước nâng cao chất lượng sống của nhân dân trên địa bàn.
Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Văn Ánh trình bày tờ trình về việc đề nghị thông qua Chương trình giám sát năm 2023 của HĐND tỉnh khóa XIV, nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Tại kỳ họp thường lệ giữa năm 2023, HĐND tỉnh xem xét các báo cáo: Báo cáo kết quả công tác 6 tháng năm 2023 của Thường trực HĐND tỉnh, các ban HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Tòa án Nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh; các báo cáo 6 tháng năm 2023 của UBND tỉnh gồm: Báo cáo kinh tế - xã hội; Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước; Báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2022 theo quy định của Luật Quản lý tài sản Nhà nước năm 2017; báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng; báo cáo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; báo cáo phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; báo cáo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo kết quả giải quyết kiến nghị cử tri gửi về kỳ họp thường lệ cuối năm 2022; báo cáo của Thường trực HĐND tỉnh về giám sát kết quả giải quyết kiến nghị cử tri gửi về kỳ họp thường lệ cuối năm 2022; báo cáo về việc thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật và theo đề nghị của Thường trực HĐND tỉnh. HĐND tỉnh tiến hành hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Tại kỳ họp thường lệ cuối năm 2023, HĐND tỉnh xem xét các báo cáo sau: Báo cáo kết quả công tác năm 2023 của Thường trực HĐND tỉnh, các ban HĐND tỉnh, UBND tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh; các báo cáo năm 2023 của UBND tỉnh gồm: Báo cáo kinh tế - xã hội; báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách nhà nước; báo kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri gửi về kỳ họp thường lệ giữa năm 2023… Báo cáo của Thường trực HĐND tỉnh về giám sát kết quả giải quyết kiến nghị cử tri gửi về kỳ họp thường lệ giữa năm 2023. Báo cáo về việc thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật và theo đề nghị của Thường trực HĐND tỉnh.
Đối với giám sát chuyên đề về việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND tỉnh thông qua danh mục các dự án, công trình thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2021.
HĐND tỉnh giao Thường trực HĐND tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết về Chương trình giám sát năm 2023 của HĐND tỉnh và tăng cường hoạt động giám sát thường xuyên, không báo trước, đáp ứng kịp thời cho công tác điều hành, quản lý nhà nước. Chỉ đạo, điều hòa hoạt động giám sát của các ban, các tổ đại biểu HĐND tỉnh và tăng cường đôn đốc việc chấp hành các kiến nghị sau giám sát, chất vấn của HĐND tỉnh, Thường trực và các ban HĐND tỉnh, bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Căn cứ Chương trình giám sát của HĐND tỉnh, Thường trực, các ban và các tổ đại biểu HĐND chủ động xây dựng, triển khai thực hiện Chương trình giám sát năm 2023 thuộc thẩm quyền; phối hợp hiệu quả với Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh, Thường trực, các ban HĐND các cấp và các cơ quan có liên quan tổ chức giám sát và báo cáo HĐND tỉnh, Thường trực HĐND tỉnh kết quả thực hiện chương trình giám sát.
Đồng chí Bùi Thị Hương, Trưởng Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh trình bày tóm tắt các báo cáo thẩm tra của Ban.
* Báo cáo tình hình KT-XH 6 tháng đầu năm 2022 và dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển KT-XH 6 tháng cuối năm 2022
Đối với Báo cáo tình hình KT-XH 6 tháng đầu năm 2022 và dự thảo Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển KT-XH 6 tháng cuối năm 2022, Ban Kinh tế - Ngân sách đồng tình và thống nhất cao với các kết quả cũng như tồn tại, hạn chế và các giải pháp nêu ra trong báo cáo. Đồng thời, khẳng định, kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm 2022 là hết sức quan trọng, là tiền đề tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ KT-XH của cả năm 2022.
Tuy nhiên, qua thẩm tra của các Ban thấy rằng, việc triển khai các Nghị quyết của Hội đồng ở một số nơi vẫn chưa hiệu quả, kịp thời. Ví dụ như các Nghị quyết liên quan đến các giải pháp, cơ chế, hỗ trợ của ngành. Do đó, tại kỳ họp lần này, Ban đề nghị UBND tỉnh trong báo cáo đánh giá tình hình phát triển KT-XH 6 tháng đầu năm cần bổ sung đánh giá về việc triển khai các Nghị quyết, nhất là các Nghị quyết có giải pháp điều hành trong năm, có lộ trình cụ thể thực hiện trong năm…
Đối với nhiệm vụ phát triển KT-XH trong 6 tháng cuối năm, để đạt được mục tiêu thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch bệnh Covid-19, vừa bảo đảm an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân, phục hồi mạnh mẽ, vững chắc ngành du lịch, thúc đẩy phát triển KT-XH, giữ vững đà tăng trưởng hai con số, Ban đề nghị UBND tỉnh lựa chọn một số nút thắt cơ bản để tập trung tháo gỡ, như sau:
Giữ vững thành quả phòng chống dịch, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chiến lược tổng thể thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách và quản lý chặt chẽ đầu tư công.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trên các lĩnh vực, nhất là về quy hoạch, đất đai, xây dựng, đô thị, tài nguyên môi trường, khoáng sản.
Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của các cơ quan, địa phương trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri, ban hành quy chế phối hợp giữa các bên HĐND, UBND, UB MTTQ trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát trách nhiệm của các cấp chính quyền, thủ trưởng các sở, ban, ngành trong việc giải quyết kiến nghị cử tri.
* Tờ trình về phê duyệt chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công vốn ngân sách.
Theo Tờ trình và dự thảo Nghị quyết dự kiến đề xuất chủ trương đầu tư với 4 dự án gồm 1 dự án công trình thủy lợi; 2 dự án công trình giao thông; 1 công trình an ninh quốc phòng. Hồ sơ đề xuất chủ trương đầu tư các dự án đã đảm bảo yêu cầu về thành phần, nội dung theo quy định. Các báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư thể hiện các nội dung theo quy định và đã được các cơ quan chuyên môn thẩm định đủ điều kiện trình HĐND tỉnh.
Trên cơ sở thảo luận của các thành viên, Ban Kinh tế - Ngân sách thống nhất trình HĐND tỉnh thông qua đối với 3/4 dự án, 1 dự án chưa đủ căn cứ pháp lý để trình HĐND tỉnh là Dự án Hệ thống điện chiếu sáng: Đường dẫn cầu Bắc Luân II tại phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái; đoạn tuyến Quốc lộ 18, đoạn qua địa phận huyện Hải Hà do không thuộc nhiệm vụ chi theo Nghị quyết số 303/2020/NQ-HĐND.
* Tờ trình về điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn, giai đoạn 2021-2025.
Qua thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với phương án đề xuất điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn theo báo cáo của UBND tỉnh. Nội dung điều chỉnh, bổ sung đã bám sát các quy định của pháp luật, chỉ đạo của Tỉnh ủy; đảm bảo các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn cho các dự án trong kế hoạch. Danh mục và kế hoạch vốn trung hạn cho các dự án bổ sung năm trong khả năng cân đối nguồn lực của địa phương.
Đồng thời, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo rà soát bổ sung danh mục và kế hoạch đầu tư công trung hạn cho các dự án hoàn thành đã được phê duyệt quyết toán đảm bảo nguyên tắc: Các dự án được bổ sung phải thuộc danh mục dự án đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của giai đoạn trước (theo quy định của tại Điều 52 Luật đầu tư công).
Trên cơ sở quyết nghị của HĐND tỉnh thông qua chủ trương đầu tư 4 dự án tại Kỳ họp này, Ban Kinh tế - Ngân sách đề nghị HĐND tỉnh bổ sung đồng thời vào kế hoạch đầu tư công trung hạn đối với các dự án được thông qua.
Về đề xuất điều chỉnh tăng 200 tỷ đồng Kế hoạch đầu tư công trung hạn đối với Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo gắn với xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết số 96/NQ-HĐND ngày 31/5/2022, sau quá trình thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách đề xuất HĐND tỉnh phê duyệt giảm 7,67 tỷ đồng so với đề nghị của UBND tỉnh.
* Thẩm tra Dự thảo Nghị quyết thông qua danh mục dự án công trình thu hồi đất
Theo các Tờ trình và dự thảo Nghị quyết dự kiến thông qua: Danh mục thu hồi đất để thực hiện 22 dự án, công trình có tổng diện tích cần thu hồi là 173,16 ha; Điều chỉnh tên và diện tích dự án, diện tích thu hồi đất đối với 9 dự án đã được HĐND tỉnh thông qua.
Ngày 30/6/2022, UBND tỉnh đã có Văn bản số 3993/UBND-QLĐĐ3 báo cáo HĐND tỉnh xin rút không trình danh mục thu hồi đất tại kỳ này đối với 4 dự án thu hồi đất để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ, số liệu và 1 dự án điều chỉnh diện tích thu hồi đất do sơ suất trong khâu rà soát của cơ quan đề xuất trình. Đồng thời đề nghị bổ sung điều chỉnh giảm diện tích thu hồi đất đối với 1 dự án đã được HĐND tỉnh thông qua tại Nghị quyết số 86/NQ-HĐND ngày 31/3/2022.
Qua thẩm tra, trao đổi và làm rõ các nội dung nêu trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết, báo cáo giải trình của Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Kinh tế - Ngân sách báo cáo và đề nghị HĐND tỉnh thông qua: Danh mục 18 dự án, công trình thu hồi đất để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng với tổng diện tích đất cần thu hồi là 54,24ha; danh mục 9 dự án, công trình thu hồi đất điều chỉnh tên, diện tích thu hồi và loại đất thu hồi đã được HĐND tỉnh thông qua tại các Nghị quyết.
Tại kỳ họp, qua thẩm tra, Ban Kinh tế - Ngân sách cũng đã làm rõ danh mục các dự án, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng; điều chỉnh chủ trương đầu tư một số dự án đầu tư công; điều chỉnh bổ sung, phân bổ, kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách cấp tỉnh năm 2022 và điều chỉnh phương án sử dụng nguồn tăng thu; kết dư ngân sách cấp tỉnh năm 2021…
Ban Kinh tế - Ngân sách qua thẩm tra đồng tình đối với 3 báo cáo, tờ trình: Tờ trình về việc sửa đổi, bổ sung một số loại phí và lệ phí thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh; Báo cáo tình hình quản lý và sử dụng tài sản công tỉnh Quảng Ninh năm 2021; Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện dự toán ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm; nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2022.
Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh Vũ Thị Diệu Linh trình bày báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về việc thông qua Đề án thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn (NTM) mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025.
Thời gian qua, chương trình NTM mới tỉnh Quảng Ninh đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện. Tính đến hết năm 2021, có 98/98 xã đạt chuẩn NTM, trong đó, 20 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu, 44 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 9/13 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Quá trình xây dựng NTM của tỉnh đã góp phần đưa 26 xã và 56 thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, góp phần thay đổi diện mạo khu vực nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn ngày càng khang trang, đời sống văn hóa đổi mới, sản xuất có bước phát triển, thu nhập bình quân của người dân khu vực nông thôn từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh...
Dự thảo nghị quyết thông qua Đề án thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025 đã nêu các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phấn đấu đến năm 2022 tỉnh Quảng Ninh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; đến năm 2025 tiếp tục có lộ trình duy trì và nâng cao chất lượng xây dựng NTM theo tiêu chuẩn NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu.
Trên cơ sở kết quả thẩm tra, Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh cơ bản thống nhất với các nội dung dự thảo nghị quyết; đồng thời, đề nghị xem xét một số nội dung, cụ thể như sau:
Về căn cứ ban hành, bổ sung căn cứ: Quyết định số 1689/QĐ-TTg ngày 11/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2021 - 2025.
Về quan điểm, đề nghị bổ sung một số nội dung quan điểm trong Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, trong đó nhấn mạnh: Xây dựng NTM là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong hệ thống chính trị; nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình xây dựng NTM, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Về mục tiêu cụ thể, xem xét tách riêng mục tiêu cụ thể đến hết năm 2022 và mục tiêu cụ thể đến năm 2025; đồng thời bỏ phần so sánh với mục tiêu của trung ương và các phần chú thích chân trang.
Về ngân sách thực hiện, đề nghị xem xét chỉnh sửa nội dung “Nguồn kinh phí tỉnh điều hành thực hiện Chương trình giai đoạn 2022-2025 (Kinh phí hoạt động của Ban Chỉ đạo tỉnh; kinh phí thực hiện các nhiệm vụ, dự án theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo tỉnh, UBND tỉnh) từ nguồn vốn sự nghiệp hàng năm (Văn phòng Điều phối NTM tổng hợp nhu câu kinh phí cùng với lập dự toán ngân sách hàng năm gửi Sở Tài chính thẩm định trình UBND tỉnh phê duyệt)” chỉnh sửa thành “Nguồn kinh phí thực hiện Chương trình, từ nguồn vốn sự nghiệp hàng năm theo phân cấp ngân sách
Bên cạnh đó, việc quyết định đầu tư các dự án, quy định về quản lý và tổ chức thực hiện Chương trình NTM phải đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM các cấp (tỉnh, huyện, xã) theo các mức độ (đạt chuẩn, nâng cao, kiểu mẫu) và các văn bản pháp luật có liên quan…
Đồng chí Nguyễn Thị Huệ, Trưởng ban Pháp chế trình bày tóm tắt các báo cáo thẩm tra của Ban.
Về dự thảo nghị quyết quy định diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh, Ban đề nghị mức diện tích tối thiểu này được áp dụng trong giai đoạn từ khi nghị quyết có hiệu lực (19/7/2022) đến hết năm 2024. Đối với giai đoạn từ năm 2025 trở đi, diện tích nhà ở tối thiểu để được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là 10m2. Ban đồng ý với đề xuất mức thu, đối tượng nộp, các trường hợp miễn và chế độ thu, nộp, quản lý lệ phí đăng ký cư trú như trong dự thảo. Tuy nhiên, Ban Pháp chế thống nhất đề nghị tách 2 nội dung của dự thảo nghị quyết (nội dung quy định về diện tích nhà ở tối thiểu để đăng ký thường trú và về mức thu lệ phí đăng ký cư trú ) để đưa vào 2 dự thảo nghị quyết khác nhau trình HĐND tỉnh xem xét, thông qua.
Về một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022 – 2025, Ban Pháp chế cơ bản nhất trí với bố cục, mục tiêu, biện pháp thực hiện trong dự thảo nghị quyết. Tuy nhiên qua thẩm tra, Ban Pháp chế đề nghị nâng cao tỷ lệ % các chủ thể được cập nhật kiến thức pháp luật như: Đội ngũ báo cáo viên pháp luật, cán bộ, chiến sỹ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên. Đồng thời, đề nghị bổ sung “100% địa bàn trọng điểm về an ninh quốc phòng được phổ biến giáo dục pháp luật liên quan” và điều chỉnh “địa bàn trọng điểm phức tạp về vi phạm pháp luật” thành “địa bàn trọng điểm phức tạp về trật tự an toàn xã hội” để đảm bảo thống nhất theo đúng thuật ngữ Bộ Công an quy định. Liên quan đến một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật, Ban đề nghị rà soát các nhóm biện pháp đảm bảo việc phổ biến giáo dục pháp luật tới tất cả các chủ thể, có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của chủ thể trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và phát huy vai trò của Sở Tư pháp, các tổ chức chính trị- xã hội, Hội Luật gia trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
Đồng thời, bổ sung thêm nhóm biện pháp về một số nhiệm vụ trong giai đoạn 2022-2025 về công tác phổ biến giáo dục pháp luật hướng đến các chủ thể như: Trường học, doanh nghiệp, người dân... Về nguồn lực thực hiện cần quy định rõ: UBND tỉnh và các địa phương đảm bảo kinh phí cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật, hàng năm bố trí tăng tỷ lệ thích hợp phù hợp với khả năng cân đối của các cấp ngân sách.
Về việc đặt tên đường, phố trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh: Vân Đồn, Quảng Yên, Móng Cái, Hạ Long, Uông Bí, qua thẩm tra, Ban Pháp chế đề nghị xem xét lại việc đặt tên một số tuyến đường, phố và chưa đưa vào đặt tên kỳ này để lựa chọn tên tương xứng với công lao đóng góp của nhân vật lịch sử cũng như phù hợp với quy hoạch đô thị được phê duyệt.
Về công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, Ban Pháp chế kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo triển khai đồng bộ và hiệu quả các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí, trong đó quan tâm: Tăng cường thanh tra đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật các lĩnh vực nhạy cảm; phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương, đơn vị với Ủy ban MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong triển khai các hoạt động để phát huy vai trò, nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành thu, chi ngân sách; quản lý chặt chẽ đầu tư công, chi thường xuyên; quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đất đai, tài nguyên; rà soát, sắp xếp lại tài sản công. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ thoái vốn nhà nước tại 03 công ty cổ phần và xác định giá trị của 09 đơn vị sự nghiệp công lập để thực hiện cổ phần hóa. Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên đề về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; khắc phục triệt để các kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm tra.
Đối với công tác tiếp công dân, Ban Pháp chế đề nghị UBND tỉnh cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công vụ, nhất là trách nhiệm người đứng đầu các ngành, các địa phương trong đối thoại, tiếp công dân, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh ngay từ cơ sở, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Gắn việc giải quyết khiếu nại, tố cáo với nội dung đánh giá, phân loại mức độ thực hiện nhiệm vụ đối với người đứng đầu; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chỉ đạo UBND các cấp tăng cường công tác phối hợp trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ; tích cực tham gia tố tụng theo quy định pháp luật để nâng cao hiệu quả việc giải quyết án hành chính của Tòa án nhân dân hai cấp và thực hiện nghiêm túc các bản án, quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật.
Liên quan đến báo cáo công tác của: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự tỉnh 6 tháng đầu năm 2021, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2022, Ban Pháp chế cơ bản nhất trí đối với các nội dung mà Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự tỉnh trình tại kỳ họp. Tuy nhiên, Ban cũng đề xuất một số kiến nghị. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, đề nghị tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành; kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, dân sự từ khâu thụ lý đến thi hành bản án, quyết định của Tòa án để hạn chế tối đa việc quá hạn xét xử và đảm bảo việc giải quyết đúng quy định của pháp luật. Chú trọng việc kiểm sát đột xuất đối với các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ nhằm kịp thời phát hiện, kiến nghị và kháng nghị phòng ngừa, khắc phục các vi phạm trong quá trình giam giữ
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh, đề nghị tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp; quan tâm đẩy nhanh tiến độ và nâng cao tỷ lệ, chất lượng giải quyết các loại án, đặc biệt là các án dân sự, hành chính để đảm bảo đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giao; nâng cao số vụ, việc hòa giải, đối thoại thành theo yêu cầu Chỉ thị 02/2022/CT-TC của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao; tiếp tục quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ, công chức; thực hiện tốt quy định luân chuyển cán bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của ngành. Đối với Cục Thi hành án dân sự tỉnh, cần có giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao tỷ lệ hành án đối với các khoản thu cho tổ chức tín dụng và ngân hàng và thi hành xong đối với các vụ phức tạp, kéo dài, có số tiền có điều kiện thi hành lớn; đảm bảo kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh đạt chỉ tiêu năm 2022. Sớm ban hành quy chế về phân công nhiệm vụ đối với Chấp hành viên; chỉ đạo, khắc phục các vi phạm, sai sót trong công tác thi hành án dân sự.
Nhóm phóng viên
Liên kết website
Ý kiến ()