Tất cả chuyên mục
Thứ Hai, 06/05/2024 10:04 (GMT +7)
Nhà văn Võ Huy Tâm trong ký ức người vợ hiền
Chủ nhật, 07/07/2019 | 06:02:49 [GMT +7] A A
Nhà văn Võ Huy Tâm sinh năm 1926 tại Nam Định nhưng cả đời gắn bó và thành danh ở Vùng mỏ. Ông là người đặt nền móng cho văn xuôi Quảng Ninh viết về công nhân mỏ. Đối với văn học Quảng Ninh, ông có một vị trí đặc biệt không thể thay thế. Còn trong tâm trí bà Hà Thị Tuyến, hình ảnh người chồng, nhà văn công nhân Võ Huy Tâm mãi mãi không phai mờ.
Bà Hà Thị Tuyến xem lại di ảnh chồng - nhà văn Võ Huy Tâm. Ảnh: Huỳnh Đăng. |
Những gì đáng nhớ nhất với bà Tuyến là quãng đời hai vợ chồng khai phá Thạch Anh Trang (khu vực mỏ Khe Tam, phường Cẩm Tây, TP Cẩm Phả). Thạch Anh Trang làm người nghe dễ lầm tưởng là biệt phủ nhưng thực chất là túp lều nhỏ. Bà Hà Thị Tuyến cho biết, ông đã đặt tên cho khu nhà của mình như vậy vì trên núi có nhiều đá thạch anh. Con trai út của ông được đặt tên là Võ Hồng Trang để nhớ về cái túp lều đó. Thạch Anh Trang là nơi vợ chồng ông lao động để nuôi đàn con qua cơn đói. Đây cũng là nơi ông tiếp bạn văn và san sẻ những gì ông bà làm được cho văn sĩ khốn khó, túng bấn hơn mình.
Từ phố mỏ, muốn tới được Thạch Anh Trang, nhà văn phải qua một cái dốc dài hơn hai cây số và cao gọi là dốc Văn Tế. Nhà văn Võ Huy Tâm như một văn sĩ ẩn dật, hàng ngày đội mũ lá, tay cầm con dao lũi cũi leo để lên túp lều. Một bạn văn của ông thấy vậy đã tặng ông mấy câu hài hước thế này: "Nam mô Bồ Tát với Bồ Hòn/ Đi đạo không đi xa vợ con/ Khắp phố vì cô hay vác rá/ Cùng đường văn sĩ phải lên non”. Chẳng là ngày ấy, gia đình nhà văn ở phố quanh năm thiếu đói, bà Hà Thị Tuyến thường vác rá đi vay hàng xóm. Buộc lòng vợ chồng ông phải lên phát núi cải thiện đời sống. Nghe chuyện nhà văn lên núi, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã viết mấy câu thơ như sau: “Bỏ phố vào phát núi/ Dựng lều Thạch Anh Trang/ Không vào rừng thì đói/ Nhà văn lại cười xòa/ Mà văn chương cần phải/ Vươn lên những tầm xa”.
Bà Tuyến kể nhà có bốn đứa con đang tuổi ăn tuổi học, lương công nhân ba cọc ba đồng, chế độ tem phiếu thì thấp nên tháng nào cũng thiếu ăn. Thêm nữa, nhà dưới phố chật chội chẳng có chỗ nào tử tế cho ông để ngồi viết, đành phải lên núi. Thạch Anh Trang là một vùng rừng núi hoang vu, toàn đất đá và cây dại. Ông bà phải vần đá đi, phát quang cây dại lấy đất để trồng ngô, khoai, sắn và chăn nuôi lợn, gà. Nói là thế chứ lao động chính ở Thạch Anh Trang là bà Tuyến. Nhà văn Võ Huy Tâm chủ yếu lấy chỗ yên tĩnh để viết, thỉnh thoảng mới hỗ trợ vợ cuốc đất trồng cây.
Nhờ sự tảo tần của vợ, nhà văn Võ Huy Tâm vượt qua được nỗi lo cơm áo để tập trung vào viết. Ông còn thi vị hóa đời sống ở Thạch Anh Trang: “Quần tụ Thạch Anh đá mấy hòn/ Tình thơ vẫn ấm túp lều con/ Sắn khoai gắn bó cùng nương rẫy/ Đào mận sum vầy giữa núi non”. Theo lời kể của bà Tuyến, trong căn lều ấy, nhà văn Võ Huy Tâm đã viết nhiều tác phẩm như: “Trăng bão”, “Măng bão”, “Rượu chát”, “Gánh chèo mảnh”, “Chỉ bọc vàng” v.v. Nhưng cũng vì quá say mê viết mà có lần nhà văn đã làm cháy túp lều Thạch Anh Trang. Lúc ấy, ông vừa kêu vừa vơ đống bản thảo như ôm báu vật chạy ra khỏi nhà. Sau đó, ông bà đã phải dựng lại túp lều này.
Họa sĩ Trần Văn Cẩn và họa sĩ Huỳnh Văn Thuận đến thăm nhà văn Võ Huy Tâm (bên phải) ở Thạch Anh Trang. Ảnh: NSNA Đoàn Đạt. |
Ở Thạch Anh Trang, vợ chồng nhà văn công nhân đã vinh dự được đón tiếp nhiều văn nghệ sĩ, kể cả những người nổi tiếng, như: Nhà thơ Hoàng Trung Thông, họa sĩ Huỳnh Văn Thuận, họa sĩ Trần Văn Cẩn, nhà văn Vũ Tú Nam.v.v.. Mỗi lần có khách, thứ đãi khách là sản vật vườn nhà do bà Tuyến nuôi trồng ở Thạch Anh Trang. Sau này, ông đã lấy một trong những bút danh của mình là Hà Tuyến như một sự biết ơn đối với người vợ hiền.
Khi được cán bộ, công nhân ngành Than chung tay xây cho ông một ngôi nhà tình nghĩa ở phố Tô Hiệu (phường Cẩm Trung, TP Cẩm Phả), ông mới bán Thạch Anh Trang. Năm 1996, ông qua đời trong ngôi nhà tình nghĩa này, để lại cho đời gia tài văn chương khá đồ sộ với những tác phẩm nổi tiếng, như: "Vùng mỏ", "Vỉa than lớn", "Chiếc cán búa".v.v. Mọi đồ vật và cách bài trí căn nhà vẫn được gia đình giữ nguyên như khi ông còn sống. Bà Tuyến còn dành căn phòng ông đã từng viết văn làm nơi thờ cúng và lưu giữ những kỷ vật, di cảo, nhiều huân, huy chương, bằng khen của ông. Trong căn phòng đó có bức tượng bán thân của nhà văn bằng than kíp lê do ngành Than tặng và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật được truy tặng năm 2001.
Phạm Học
Liên kết website
Ý kiến ()