Tất cả chuyên mục
Thứ Tư, 08/01/2025 18:57 (GMT +7)
Phiên chất vấn “hỏi nhanh, đáp gọn”, đúng trọng tâm
Thứ 6, 06/12/2024 | 08:12:14 [GMT +7] A A
Tiếp tục chương trình kỳ họp, sáng 6/12, kỳ họp thứ 23 HĐND tỉnh khoá XIV diễn ra phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường. Đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, điều hành phiên chất vấn. Dự phiên chất vấn có các đồng chí: Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Trịnh Thị Minh Thanh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.
Tại phiên chất vấn, đã có 21 nội dung đề xuất chất vấn từ các đại biểu HĐND tỉnh. Các nội dung tập trung ở nhiều lĩnh vực như: Chính sách hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng thiệt hại sau cơn bão số 3, chương trình xoá hoàn toàn nhà ở tạm, nhà ở dột nát; thực hiện kế hoạch tinh giản biên chế của ngành giáo dục; thực hiện đề án chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025; công tác tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm; tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới; ban hành bảng giá đất, giao khu vực biển, trật tự an toàn giao thông …
Căn cứ vào các nội dung đại biểu đăng ký và vấn đề cử tri quan tâm, phiên chất vấn sẽ tập trung vào 2 nhóm vấn đề chính gồm: Việc thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh; việc ban hành được bảng giá đất điều chỉnh và giao khu vực nuôi biển.
Đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh nhấn mạnh, phiên chất vấn sẽ trên tinh thần hỏi nhanh, gọn - trả lời thẳng, đi thẳng vào vấn đề. Đại biểu dành thời gian để có nhiều câu hỏi và câu trả lời, không ngại tranh luận để làm rõ, đi đến cùng vấn đề.
Đại biểu Bùi Thị Hải, Tổ đại biểu TP Hạ Long có nội dung chất vấn Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông:
Tại kỳ họp thứ 12 của HĐND tỉnh vào tháng 12/2022, đồng chí Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh đã trả lời chất vấn trước HĐND về cam kết thúc đẩy chuyển đổi số. Tuy nhiên, đến nay, tỉnh Quảng Ninh đang đứng thứ 35/63 tỉnh, thành phố về bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp. Với vai trò là cơ quan thường trực, chủ trì tham mưu về triển khai thực hiện Đề án chuyển đổi số, đề nghị đồng chí Giám đốc Sở cho biết trong thời gian qua, Sở đã tham mưu triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số như thế nào? Kết quả thực hiện đến thời điểm hiện nay?
Liên quan đến nội dung về chuyển đổi số, đại biểu Vũ Đình Nhân, Tổ đại biểu TP Cẩm Phả có nội dung chất vấn Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông chất vấn:
Thực tiễn thời gian qua, công tác chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh mang lại nhiều lợi ích và hiệu quả rất thiết thực đối với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân. Trong đó, hệ thống chính quyền điện tử là công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả công việc của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và giải quyết các TTHC. Hiện nay, hầu hết công tác chỉ đạo, điều hành, giải quyết các công việc hành chính, giải quyết TTHC đều được tác nghiệp trên hệ thống. Tuy nhiên thời gian gần đây, qua nắm bắt tình hình chung thì hệ thống đã và đang có dấu hiệu quá tải, hoạt động rất chậm và hay bị lỗi, điều này làm ảnh hưởng trực tiếp và làm gián đoạn đến hiệu quả xử lý công việc của cán bộ, công chức, đặc biệt là ảnh hưởng đến việc nộp và thời gian xử lý hồ sơ TTHC trực tuyến của người dân và doanh nghiệp.
Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông cho biết trước thực trạng này, ngành đã có những nhận diện đánh giá như thế nào và trách nhiệm của ngành sẽ có các giải pháp cụ thể ra sao để khắc phục tình trạng trên, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền điện tử các cấp phục vụ hiệu quả cho người dân trong thời gian tới.
Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Nga, Tổ Quảng Yên chất vấn Sở Thông tin và Truyền thông về kết quả triển khai để thúc đẩy chuyển đổi số. Theo đại biểu, tại Nghị quyết số 140/NQ-HĐND ngày 9/11/2022 của HĐND tỉnh về chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 12, trong đó có một số nhiệm vụ cần triển khai để thực hiện thúc đẩy chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, qua theo dõi, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, ngân sách cấp tỉnh không có danh mục dự án thuộc lĩnh vực công nghệ, thông tin; một số nhiệm vụ, đề án liên quan đến lĩnh vực thông tin, chuyển đổi số được bố trí từ nguồn chi thường xuyên không triển khai phải hủy dự toán.
Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông cho biết kết quả triển khai các nhiệm vụ được nêu tại Nghị quyết số 140/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. Đồng thời, Sở Thông tin và Truyền thông đã có những giải pháp gì tham mưu cho UBND tỉnh khi xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 để xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và xây dựng đô thị thông minh?
Đồng chí Lê Ngọc Hân, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh trả lời chất vấn của đại biểu Bùi Thị Hải (Tổ đại biểu TP Hạ Long).
Ngày 23/6/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 766/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường điện tử (gọi tắt là Bộ chỉ số 766). Bộ Chỉ số 766 gồm có 5 nhóm chỉ số cơ bản sau: Nhóm chỉ số công khai, minh bạch; Nhóm chỉ số về cung cấp dịch vụ công trực tuyến; Nhóm chỉ số thanh toán trực tuyến; Nhóm chỉ số về số hóa hồ sơ; Nhóm chỉ số về tiến độ, kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính. Trong 5 nhóm chỉ số, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh chịu trách nhiệm đối với Nhóm chỉ số về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, Nhóm chỉ số thanh toán trực tuyến, Nhóm chỉ số về số hóa hồ sơ. Thời gian qua, Sở Thông tin và Truyền thông đã nhận diện được những tồn tại, hạn chế liên quan đến những nhóm chỉ số trên và đã đưa ra nhiều giải pháp để khắc phục nên điểm số của các chỉ số cũng đã có sự cải thiện. Tuy nhiên để có giải pháp mang tính căn cơ toàn diện, lâu dài thì tỉnh cần phải nâng cấp hệ thống chính quyền điện tử.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Vũ Đình Nhân, Tổ đại biểu TP Cẩm Phả, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông khẳng định:
Về hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) của tỉnh nằm trong tổng thể Chính quyền điện tử tỉnh Quảng Ninh được đưa vào vận hành, khai thác, sử dụng từ năm 2014 và đã tiến hành nâng cấp lần 1 vào năm 2018 về giao diện và bổ sung một số chức năng, tiện ích.
Năm 2019, khi Chính phủ công bố và đưa vào vận hành Cổng dịch vụ công Quốc gia, yêu cầu các tỉnh, thành phố thực hiện kết nối, Sở Thông tin và Truyền thông đã chủ động tiến hành rà soát, đánh giá tổng thể về Cổng dịch vụ công của tỉnh, đồng thời đề ra các giải pháp để đảm bảo kết nối, đáp ứng các yêu cầu trong giải quyết thủ tục hành chính. Tuy nhiên, năm 2022, khi Chính phủ ban hành Đề án 06 với rất nhiều các yêu cầu về kết nối, liên thông, chia sẻ thì đòi hỏi phải tiếp tục nâng cấp và nhiệm vụ này đang được triển khai. Thực tế hiện nay, do quá trình vận hành lớn, quá tải, nhiều lượt người dùng khiến hoạt động chậm và lỗi. Điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý công việc của cán bộ, công chức, đặc biệt là ảnh hưởng đến việc nộp và thời gian xử lý hồ sơ TTHC trực tuyến của người dân và doanh nghiệp.
Với vai trò người đứng đầu Sở Thông tin và Truyền thông, tôi xin nhận trách nhiệm cá nhân về những tồn tại, hạn chế của hệ thống chính quyền điện tử nói chung, trong đó tập trung ở hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính. Trước khi đi vào trả lời cụ thể, tôi xin nhận khuyết điểm trước cử tri và nhân dân về việc hệ thống giải quyết thủ tục hành chính trong thời gian vừa qua chưa đảm bảo thuận tiện, còn có lúc, có thời điểm bị lỗi, ảnh hưởng đến người dân, doanh nghiệp khi tham gia giải quyết TTHC.
Tuy nhiên, xét trên tương quan, đánh giá với các tỉnh, thành phố trên cả nước về chất lượng Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2023, Quảng Ninh nằm trong nhóm 43 tỉnh, thành phố có kết quả đánh giá Cổng dịch vụ công đạt mức độ B. Năm 2024, Quảng Ninh nằm trong nhóm 15 tỉnh, thành phố có kết quả đánh giá Cổng dịch vụ công đạt mức độ D (không có tỉnh, thành phố nào đạt mức độ A và mức độ B).
Từ những kết quả đánh giá trên cùng với việc tiếp nhận ý kiến của người dân, doanh nghiệp, cán bộ giải quyết thủ tục hành chính, Sở Thông tin và Truyền thông đã đưa nhiệm vụ nâng cấp hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính là trọng tâm, cấp bách. Tuy nhiên, quá trình triển khai gặp một số khó khăn trong việc rà soát, tiến hành cập nhật theo thông tư mới của Bộ Thông tin và Truyền thông. Bên cạnh đó, với sự phức tạp của các dự án CNTT, từ công tác chuẩn bị đầu tư đến thực hiện đầu tư gặp nhiều khó khăn về tìm đơn vị khảo sát, thẩm định giá. Ngoài ra, thẳng thắn nhìn nhận thì số lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động chuyển đổi số còn mỏng, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế.
Theo đó, với cương vị người đứng đầu Sở Thông tin và Truyền thông, tôi xác định các giải pháp trước mắt là chỉ đạo, điều phối đội ngũ kỹ thuật trực 24/24h để kịp thời xử lý các lỗi kỹ thuật xảy ra. Hiện tại, Sở đã cử 1 đồng chí kỹ thuật thường trực tại Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh để trực tiếp nắm, phối hợp, xử lý ngay đối với các lỗi đơn giản và hỗ trợ người dùng khi gặp trục trặc mà nguyên nhân do thao tác. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với đội ngũ chuyên gia các tập đoàn công nghệ lớn có hợp tác với tỉnh để hỗ trợ xử lý những lỗi khó, phức tạp.
Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Bùi Thị Quỳnh Nga (Tổ đại biểu TX Quảng Yên), đồng chí Lê Ngọc Hân, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông, báo cáo về việc triển khai Nghị quyết số 140/NQ-HĐND ngày 9/11/2022 của HĐND tỉnh, sau 2 năm triển khai, Quảng Ninh đã và đang triển khai việc kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu với các bộ, ngành Trung ương theo chỉ đạo chung và yêu cầu cụ thể của từng bộ, ngành; kết nối toàn diện với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và khai thác, sử dụng 10 trường thông tin trong Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia; xây dựng, ban hành danh mục cơ sở dữ liệu dùng chung và cơ sở dữ liệu mở. Bên cạnh đó, một số sở, ngành, đơn vị như: Y tế, Giáo dục, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đã trở thành điển hình toàn quốc về chuyển đổi số.
Liên quan đến nội dung vai trò tham mưu của Sở Thông tin và Truyền thông trong xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 để phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Lê Ngọc Hân làm rõ, công nghệ thông tin - chuyển đổi số luôn là một lĩnh vực có tính chất đặc thù rất khác biệt trong triển khai thực hiện về đầu tư, ứng dụng. Đây cũng là lĩnh vực luôn có biến động lớn bởi yếu tố công nghệ luôn thay đổi rất nhanh để phù hợp với xu thế và các yêu cầu mới đặt ra từ thực tiễn. Chính vì vậy, khi Chính phủ ban hành Nghị định 73/2019/NĐ-CP quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước đã chỉ rất rõ các dự án công nghệ thông tin được sử dụng 2 nguồn vốn: Nguồn đầu tư phát triển và nguồn kinh phí chi thường xuyên.
Nghị định số 82/2024/NĐ-CP ngày 10/7/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2029 của Chính phủ quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng quy định đối với dự án về công nghệ thông tin được sử dụng 2 nguồn ngân sách gồm: Nguồn đầu tư phát triển và nguồn sự nghiệp.
Bên cạnh đó, xu hướng triển khai các dự án ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay đang triển khai theo hướng thuê dịch vụ công nghệ thông tin thay vì đầu tư, vận hành hệ thống công nghệ thông tin. Tại khoản 3, Điều 53 của Nghị định số 40/2022/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công ban hành ngày 6/4/2020 quy định cụ thể, việc thuê dịch vụ công nghệ thông tin chỉ được phép dùng nguồn kinh phí chi thường xuyên.
Tại Thông báo số 402-TB/TU của Tỉnh ủy ban hành ngày 28/10/2021 đã nhấn mạnh: “Đối với phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và hạ tầng số: Không đầu tư mới; ưu tiên bố trí vốn theo phương thức thuê dịch vụ, thuê hạ tầng để đảm bảo sử dụng có hiệu quả, chi phí thấp, ít rủi ro”.
Bên cạnh đó, hiện nay, mô hình thuê dịch vụ công nghệ thông tin đang được phát huy hiệu quả, triển khai rộng rãi trong cả nước, phù hợp với xu thế hiện nay. Các doanh nghiệp công nghệ thông tin có khả năng cung cấp đa dạng, đầy đủ các dịch vụ. Do đó, kế hoạch hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 ngân sách cấp tỉnh không có danh mục dự án thuộc lĩnh vực công nghệ, thông tin.
Tiếp tục chất vấn Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông, đại biểu Vũ Đình Nhân đề nghị Giám đốc Sở cho biết rõ nội dung đầu tư, nâng cấp hệ thống chính quyền điện tử được thực hiện trong giai đoạn nào?
Trả lời câu hỏi của đại biểu Vũ Đình Nhân, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông cho biết: Theo Nghị định 73 của Chính phủ về đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số có nêu rất rõ đối với các hệ thống nâng cấp thì sử dụng nguồn chi thường xuyên; đối với hệ thống thiết lập mới hoàn toàn, xem xét bố trí từ nguồn đầu tư công.
Đối với Cổng dịch vụ công là hệ thống đã được thiết lập nằm trong Chính quyền điện tử từ năm 2014 và lần này tiến hành nâng cấp. Hiện đã được UBND tỉnh phê duyệt dự án, bố trí nguồn chi thường xuyên để thực hiện. Sở đang hoàn thiện thủ tục điều chỉnh dự án đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.
Về thời gian, việc nâng cấp hệ thống Chính quyền điện tử giải quyết thủ tục hành chính sẽ hoàn thành trong năm 2025.
Đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, khẳng định: Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Chuyển đổi số giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp; đồng thời giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản lý điều hành. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU “Về chuyển đổi số toàn diện tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều kế hoạch để thực hiện chuyển đổi số toàn diện tỉnh; HĐND tỉnh có Nghị quyết số 120/NQ-HĐND về một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh gắn với chuyển đổi số Quảng Ninh đến 2025, định hướng đến 2030.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình mới với yêu cầu ngày càng cao, dự báo một số nội dung trong chuyển đổi số Quảng Ninh đi chậm, có nguy cơ tụt lại phía sau trong cuộc chuyển đổi số của cả nước. Đồng chí Chủ tọa kỳ họp chỉ rõ trách nhiệm của những hạn chế, yếu kém nêu trên, liên quan đến trách nhiệm phối hợp của các sở, ngành có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số của ngành được giao phụ trách, trách nhiệm chính là của Sở Thông tin và Truyền thông - cơ quan Thường trực, chủ trì tham mưu về triển khai thực hiện kế hoạch chuyển đổi số của tỉnh…
Thời gian tới, Quảng Ninh xác định chuyển đổi số toàn diện, đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động lãnh đạo, quản lý điều hành trong hệ thống chính trị của tỉnh, tạo ra các giá trị tăng trưởng mới cho kinh tế - xã hội, từng bước đưa kinh tế số giữ vai trò chủ đạo trong tăng trưởng GRDP và xây dựng xã hội số an toàn, nhân văn, phù hợp quy luật, yêu cầu phát triển trong thời đại 4.0, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025. Trong đó, mục tiêu cơ bản đến năm 2025: Phấn đấu đứng trong top 3 của cả nước về chỉ số DTI; đi đầu trong chuyển đổi số các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội; trở thành mô hình mẫu về chuyển đổi số toàn diện cấp tỉnh trên 3 trụ cột là chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và lấy xây dựng Chính quyền số là khâu đột phá để phát triển kinh tế số và xây dựng xã hội số.
Xác định chuyển đổi số phải được tiếp tục quan tâm thực hiện hàng đầu và coi đây là đột phá của tỉnh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực quản lý điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, Chủ tọa kỳ họp đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo rà soát, đánh giá một cách thực chất việc triển khai thực hiện các quyết định đề án của Chính phủ, các nghị quyết, kế hoạch của Tỉnh ủy - HĐND - UBND. Cần xác định, Quảng Ninh đang đứng ở đâu trong "sân chơi" chuyển đổi số quốc gia; từ đó xác định các giải pháp, hiệu quả, thiết thực, lộ trình thực hiện cụ thể, có kiểm đếm kết quả thường xuyên; đồng thời gắn trách nhiệm người đứng đầu các sở, ngành, địa phương, nhất là đối với các mục tiêu, chỉ tiêu thấp, tiến độ thực hiện còn chậm.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tăng cường tương tác giữa người dân và doanh nghiệp; cần xác định công tác chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của cơ quan, tổ chức, người dân và doanh nghiệp nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH của tỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân.
Thường xuyên quan tâm dành nguồn lực thỏa đáng cho việc duy trì, vận hành nâng cấp phần mềm, triển khai các ứng dụng, bảo trì hạ tầng công nghệ thông tin theo hướng thuê dịch vụ công nghệ thông tin để tiết kiệm chi phí và linh hoạt trong việc cập nhật và sử dụng công nghệ mới.
Trước mắt cần khẩn trương nâng cấp cơ sở hạ tầng máy móc, thiết bị tại 13 chi nhánh trung tâm hành chính công trên địa bàn tỉnh; thực hiện đồng bộ, liên thông các dữ liệu công dân để thuận tiện trong việc thực hiện các thủ tục hành chính; triển khai phân quyền trên hệ thống chính quyền điện tử của tỉnh (đến cả 3 cấp) đáp ứng việc tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính phi địa giới hành chính. Công dân có thể nộp hồ sơ ở bất cứ đâu, cán bộ cấp xã được phân quyền tiếp nhận hồ sơ của cấp tỉnh, cấp huyện để phục vụ tốt nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả công việc của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và giải quyết các thủ tục hành chính.
Nghị quyết số 09 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nêu rõ: Quá trình chuyển đổi số của tỉnh phải được triển khai toàn diện, kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở kế thừa những kết quả đạt được của Đề án Chính quyền điện tử, thành phố thông minh và dữ liệu số đã có, đi đôi với đổi mới,sáng tạo.
Giám đốc Sở TN&MT làm rõ nội dung chất vấn liên quan đến việc xây dựng bảng giá đất điều chỉnh
Luật Đất đai năm 2024 chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2024, với 16 chương, 260 điều đã góp phần hoàn thiện thể chế, chính sách về đất đai. Luật đã được Quốc hội thông qua cho phép có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2024, sớm hơn 5 tháng so với quy định ban đầu là ngày 1/1/2025, nhằm sớm đưa các chính sách về đất đai mới vào cuộc sống để giải quyết những vướng mắc, bất cập hiện nay.
Tuy nhiên, kể từ ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành, qua nắm bắt, tiếp xúc cử tri nổi lên vấn đề: UBND các địa phương tạm dừng tiếp nhận hoặc hướng dẫn các hộ chưa nộp hoặc có tiếp nhận hồ sơ về đất đai (cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu, chuyển mục đích sử dụng đất…), nhưng chỉ giải quyết các khâu, quy trình ban đầu, còn đến bước tính nghĩa vụ tài chính về đất sẽ chờ bảng giá đất điều chỉnh được ban hành thì mới thực hiện do lo ngại việc áp dụng bảng giá đất hiện hành khi không còn nhân với hệ số điều chỉnh giá đất có thể gây thất thu ngân sách nhà nước. Việc dừng giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai gây khó khăn cho người dân trong việc thực hiện các thủ tục về xây dựng nhà ở, chuyển nhượng…
Tại kỳ họp này, một số đại biểu đã chất vấn đồng chí Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đề nghị làm rõ các nội dung liên quan đến việc giải quyết các trình tự, thủ tục về đất đai và xây dựng bảng giá đất điều chỉnh.
Đại biểu Đinh Trung Kiên (Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô) chất vấn đồng chí Giám đốc Sở TN&MT.
Hiện nay nhân dân trong tỉnh đang rất quan tâm và trông chờ việc ban hành bảng giá đất điều chỉnh để áp dụng từ ngày 1/8/2024 trên địa bàn để giải quyết các thủ tục hồ sơ hành chính liên quan đến nghĩa vụ tài chính về đất đai làm cơ sở để thực hiện các giao dịch chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất và các giao dịch liên quan.
Tuy nhiên, đến nay đã gần 4 tháng vẫn chưa có bảng giá đất điều chỉnh, đề nghị Giám đốc Sở TN&MT cho biết nguyên nhân của việc chậm trễ nêu trên và bao giờ ban hành được bảng giá đất điều chỉnh để tháo gỡ các khó khăn cho nhân dân và các tổ chức trên địa bàn trong thực hiện các giao dịch liên quan đến nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Liên quan đến nội dung này, đại biểu Nguyễn Anh Tuấn (Tổ đại biểu TP Đông Triều) chất vấn: Các hồ sơ về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho hộ gia đình, cá nhân đã được Trung tâm hành chính công các địa phương tiếp nhận trước ngày 1/8/2024 nhưng đang trong quá trình thẩm định qua nhiều khâu (cấp phường, xã; các phòng, ban cấp huyện) chưa có kết quả giải quyết thì được áp dụng theo giá đất nào? Bảng giá đất hiện hành nhân hệ số điều chỉnh giá đất của năm 2024 hay áp dụng theo bảng giá đất điều chỉnh sau khi được phê duyệt. Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở TN&MT cho ý kiến hướng dẫn của ngành đối với những trường hợp này?
Giám đốc Sở TN&MT trả lời đại biểu Đinh Trung Kiên, Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô
Theo quy định Luật Đất đai 2024 (khoản 1 Điều 257) thì: Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của Luật Đất đai 2013 được tiếp tục áp dụng đến hết ngày 31/12/2025; trường hợp cần thiết UBND cấp tỉnh quyết định điều chỉnh bảng giá đất theo quy định của Luật này cho phù hợp với tình hình thực tế về giá đất tại địa phương. Như vậy, về pháp lý thì bảng giá đất hiện hành (giai đoạn 2020-2024) đã được HĐND tỉnh thông qua, UBND tỉnh ban hành tại Quyết định số 42/2019/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 vẫn đang có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, nhận thấy sự cần thiết phải điều chỉnh bảng giá đất để phù hợp với tình hình thực tế, Sở Tài nguyên và Môi trường đã kịp thời tham mưu, đề xuất UBND tỉnh điều chỉnh bảng giá đất. Trình tự thủ tục điều chỉnh bảng giá đất theo quy định pháp luật cần rất nhiều thời gian (khoảng 6 tháng) và đến nay cả nước chỉ mới có 14/63 tỉnh, thành phố đã ban hành được bảng giá đất điều chỉnh.
Ngày 22/11/2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã họp và cho ý kiến chỉ đạo tại Thông báo số 1418-TB/TU: “Yêu cầu UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện việc xây dựng, ban hành và áp dụng bảng giá đất theo đúng điều khoản chuyển tiếp đã được quy định tại Luật Đất đai số 31/2024/QH15 và nội dung chỉ đạo, hướng dẫn của Chính phủ, cơ quan Trung ương; tổ chức thực hiện hoàn thành trước ngày 15/12/2024”.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Sở Tài nguyên và Môi trường đang rất khẩn trương cùng UBND các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh xây dựng phương án điều chỉnh bảng giá đất; phấn đấu cao nhất để hoàn thành bảng giá đất điều chỉnh.
Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Anh Tuấn (Tổ TP Đông Triều) về việc xử lý đối với hồ sơ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho hộ gia đình, cá nhân tiếp nhận trước ngày 1/8/2024, Giám đốc Sở TN&MT Trần Như Long nêu rõ: Tại Khoản 2 Điều 256 Luật Đất đai 2024 quy định về chuyển tiếp giải quyết về hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận. Theo đó, người sử dụng đất có 2 lựa chọn. Cụ thể, hồ sơ đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nhưng đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì tiếp tục giải quyết thủ tục theo quy định của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện theo quy định của Luật này. Đối với người sử dụng đất có nhu cầu đề nghị thực hiện theo quy định của Luật Đất đai 2024 thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Luật này.
Đối với việc xác định nghĩa vụ tài chính, tại Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 của Chính phủ, thời điểm tính thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp công nhận quyền sử dụng đất là thời điểm Văn phòng đăng ký đất đai gửi thông tin địa chính đến cơ quan thuế. Thời hạn Văn phòng đăng ký đất đai gửi thông tin địa chính đến cơ quan thuế không quá 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; thời hạn cơ quan thuế thông báo nghĩa vụ tài chính cho người sử dụng đất không quá 5 ngày kể từ ngày nhận được thông tin địa chính do Văn phòng đăng ký đất đai chuyển đến. Trường hợp Văn phòng đăng ký đất đai chuyển thông tin chậm hoặc cơ quan thuế chậm xác định nghĩa vụ tài chính thì thời điểm tính thu tiền sử dụng đất được xác định là thời điểm Văn phòng đăng ký đất đai nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Hiện nay, theo quy định của Luật Đất đai 2024 (khoản 3 Điều 155), thời điểm định giá đất, thời điểm tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với trường hợp công nhận quyền sử dụng đất, là thời điểm người sử dụng đất nộp đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Chất vấn Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường về nội dung giao khu vực biển, đại biểu La Thị Thủy, Tổ đại biểu Tiên Yên - Bình Liêu - Ba Chẽ cho biết: Tại Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 27/11/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, trong đó yêu cầu hoàn thành giao khu vực biển trong quý II/2024. Tuy nhiên, qua theo dõi đến nay tiến độ giao khu vực biển rất chậm, không đạt mục tiêu nghị quyết. Đặc biệt từ sau cơn bão số 3 (Yagi), cử tri và nhân dân rất quan tâm đến việc giao khu vực biển để sớm khôi phục phát triển sản xuất nuôi trồng thủy, hải sản trên biển.
Đề nghị Giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi trường cho biết kết quả việc thực hiện giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện nay, tiến độ hoàn thành?
Trả lời nội dung này, Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường Trần Như Long cho biết: Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 45.246ha khu vực biển được tích hợp quy hoạch nuôi trồng thủy sản trên biển trong Quy hoạch tỉnh, trong đó diện tích trong 3 hải lý là 23.975ha (chiếm 53,0%), diện tích từ 3 đến 6 hải lý là 13.031ha (chiếm 28,8%) và diện tích ngoài 6 hải lý là 8.240ha (chiếm 18,2%). Hiện có 8/9 địa phương hoàn thành việc lập phương án/đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển.
Việc giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân để nuôi trồng thủy sản trên biển được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 11/02/2021 của Chính phủ, theo đó việc giao khu vực biển thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh và UBND cấp huyện.
Kết quả cụ thể như sau:
+ Thẩm quyền giao khu vực biển của UBND cấp huyện: Theo báo cáo của các địa phương, hiện tại có 3/9 địa phương đã giao khu vực biển cho cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện.
- Thị xã Quảng Yên đã giao khu vực biển cho 318 hộ; tổng diện tích là 190,8ha.
- Thành phố Cẩm Phả đã giao khu vực biển cho 3 hộ; tổng diện tích là 3ha.
- Huyện Vân Đồn đã giao khu vực biển cho 1.208 hộ; tổng diện tích là 8.589ha.
+ Đối với thẩm quyền cấp tỉnh:
Về thủ tục đánh giá tác động môi trường: Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiếp nhận và thẩm định 10 hồ sơ Báo cáo đánh giá tác động môi trường của các HTX và doanh nghiệp. UBND tỉnh đã ban hành 01 quyết định phê duyệt đánh giá tác động môi trường.
Tiếp nhận 11 hồ sơ tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường, trong đó 05 hồ sơ ở huyện Vân Đồn, 05 hồ sơ ở huyện Đầm Hà, 01 hồ sơ ở huyện Hải Hà.
Về cấp phép nuôi trồng thủy sản: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cấp 07 Giấy phép nuôi trồng thủy sản cho 07 tổ chức.
Về giao khu vực biển: Sở Tài nguyên và Môi trường nhận được 01 hồ sơ đề nghị giao khu vực biển tại xã Đông Xá, xã Bản Sen, huyện Vân Đồn để nuôi hàu Thái Bình Dương. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các bộ, ngành: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, HTX đang hoàn thiện hồ sơ theo ý kiến góp ý trước khi trình UBND tỉnh phê duyệt, giao khu vực biển.
+ Đối với thẩm quyền Bộ Tài nguyên và Môi trường:
Qua trao đổi với Cục Biển và Hải đảo Việt Nam - Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho đến hiện tại, Cục chưa nhận được hồ sơ nào trên địa bàn tỉnh đề nghị giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản.
Trong quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan đến thủ tục giao khu vực biển cho thấy có thể có một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng tới tiến độ giao khu vực biển như sau, mặc dù thực tế đến nay Sở chưa nhận được ý kiến về các vướng mắc cụ thể nào.
Thứ nhất, Nhà nước không có quy định về việc lựa chọn nhà đầu tư dự án sử dụng khu vực biển nói chung và sử dụng khu vực biển để nuôi trồng thủy sản nói riêng, Luật Đầu tư không quy định năng lực nhà đầu tư được lựa chọn cho dự án sử dụng khu vực biển.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền giao khu vực biển của cấp huyện rất hạn chế. Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/02/2021 của Chính phủ quy định UBND cấp huyện có biển quyết định giao khu vực biển cho cá nhân chuyển đổi từ nghề khai thác ven bờ sang nuôi trồng thủy sản hoặc thường trú trên địa bàn mà nguồn sống chủ yếu dựa vào thu nhập từ nuôi trồng thủy sản, với hạn mức không quá 1ha, nằm trong vùng biển 03 hải lý.
Thứ ba là quy định việc lấy ý kiến: Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/02/2021 của Chính phủ quy định việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển thì hồ sơ đề nghị giao khu vực biển thuộc thẩm quyền giao của UBND cấp tỉnh thì UBND tỉnh phải có trách nhiệm lấy ý kiến của 4 bộ, gồm: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo quy định trong thời gian không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản lấy ý kiến, 4 bộ phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản, tuy nhiên trong thực tế việc lấy ý kiến đủ 4 bộ nhanh nhất mất khoảng 2 tháng. Điều này kéo dài thời gian để giải quyết thủ tục hành chính cho các tổ chức, cá nhân.
Thứ tư là quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường quy định dự án sử dụng khu vực biển thuộc thẩm quyền giao khu vực biển cấp tỉnh, cấp bộ thì phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trình UBND cấp tỉnh hoặc Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt mà không phân biệt quy mô, loại hình sản xuất.
Thứ năm là UBND cấp huyện mất nhiều thời gian để tổ chức rà soát, xác minh, thẩm định hiện trạng hộ dân nuôi thực tế; thông tin về hộ khẩu thường trú trên địa bàn theo điểm a, Khoản 2, Điều 44 của Luật Thủy sản thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của cấp huyện.
Đưa ra một số giải pháp để đẩy nhanh việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND các địa phương công bố công khai, đầy đủ thông tin quy hoạch khu vực nuôi trồng thủy sản; khẩn trương rà soát, xác định cụ thể nhu cầu sử dụng khu vực biển nuôi trồng thủy sản của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn.
Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp tục phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường để chỉnh sửa Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/02/2021 của Chính phủ quy định việc giao khu vực biển theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để cho UBND các cấp.
Giải trình rõ hơn về nội dung này, ông Hoàng Vĩnh Khuyến, Chủ tịch UBND huyện Đầm Hà, cho biết:
Đầm Hà trên cơ sở quy hoạch vùng huyện, huyện đã xây dựng sơ đồ không gian nuôi biển, phê duyệt không gian nuôi biển để làm cơ sở cho các hộ gia đình, hợp tác xã nuôi biển. Tại địa phương, chủ yếu là nuôi hàu nhiều, số diện tích trên 1ha. Với quy mô này thuộc thẩm quyền giao biển của tỉnh.
Nếu tất cả các gia đình đều làm các hồ sơ đăng ký giao biển, thì số lượng hồ sơ, chi phí, thời gian thực hiện hoàn tất hồ sơ là rất lớn. Vì vậy, trên cơ sở đặc điểm tình hình và nhu cầu của người dân, địa phương đã hướng dẫn các hộ gia đình thành lập hợp tác xã. Hiện nay, trên địa bàn có 11 hợp tác xã. Huyện đã thực hiện quy hoạch, phân vùng, xác định vị trí để các HTX đăng ký, lập hồ sơ giao biển.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai còn gặp khó khăn. Trong đó, do năng lực, điều kiện của HTX nên việc lập và đánh giá tác động môi trường để trình thẩm định, phê duyệt mất thời gian. Đến nay, chưa có HTX nào hoàn thành xong thủ tục trình duyệt. Huyện đã hỗ trợ, hướng dẫn các HTX triển khai các thủ tục này.
Đối với đối tượng nuôi cá dưới 1ha trên địa bàn, huyện đã phân vùng, công khai quy hoạch, hướng dẫn nhân dân.
Đồng chí Đỗ Thị Ninh Hường, Bí thư Huyện ủy Đầm Hà, làm rõ các nội dung liên quan đến giao biển trên địa bàn huyện.
Huyện Đầm Hà đã triển khai quy hoạch nuôi biển với diện tích khoảng 6.000ha; ban hành Phương án về giao, cho thuê đất bãi triều, đất mặt nước ven biển, khu vực biển để nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, huyện thực hiện bố trí, sắp xếp các vùng nuôi an toàn, khoa học, phù hợp với các quy hoạch; đẩy nhanh việc chuyển đổi sang sử dụng vật liệu làm phao nổi; tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, thu hút các nhà đầu tư uy tín, có điều kiện với các thiết bị tiên tiến…
Đối với việc giao biển dưới 1ha cho các hộ dân, huyện hiện có 45ha. Để đảm bảo tính minh bạch trong giao nuôi biển cho người dân, huyện đã chủ động xác định đúng đối tượng, đúng phạm vi để những hộ có nhu cầu được hưởng đúng chính sách. Dự kiến đến ngày 25/12/2024 sẽ giao biển cho các hộ dân nuôi dưới 1ha theo thẩm quyền của huyện, gắn với việc ra mắt câu lạc bộ nuôi biển. Bên cạnh đó, các đơn vị sản xuất giống trên địa bàn cũng sẽ thực hiện hỗ trợ 30% giá cá giống cho nhân dân.
Đối với việc giao biển cho các hộ dân trên 1ha, địa phương đã nhận được sự hỗ trợ của các sở, ngành. Tuy nhiên, do năng lực của người đứng đầu HTX còn hạn chế nên việc thực hiện các quy trình đánh giá tác động môi trường, các thủ tục khác để được giao biển còn khó khăn. Vì vậy, chúng tôi mong muốn tỉnh hỗ trợ các địa phương và HTX để tháo gỡ những khó khăn này.
Đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, khẳng định: Luật Đất đai 2024 là bộ luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong đó, các chính sách tài chính về đất đai đã được đổi mới căn bản; hoàn thiện các quy định về giá đất theo nguyên tắc thị trường đảm bảo công khai, minh bạch; không còn khung giá đất và bảng giá đất được xây dựng có tính đến giá đất phổ biến trên thị trường, đây là một sự đổi mới rất lớn so các quy định của Luật Đất đai năm 2013. Theo Khoản 1 Điều 159 Luật Đất đai 2024 quy định Bảng giá đất là công cụ cơ bản để Nhà nước quyết định, sử dụng để quản lý giá trị đất đai và đảm bảo việc sử dụng đất diễn ra công bằng và minh bạch; cung cấp khung giá chuẩn để áp dụng cho nhiều trường hợp cố định mà không cần xem xét đến giá trị thị trường.
Luật Đất đai năm 2024 cũng đã đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, sử dụng đất đai, trong đó có nội dung về điều chỉnh, xây dựng bảng giá đất. Tại Khoản 1 Điều 257 Luật Đất đai năm 2024, quy định “Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 được tiếp tục áp dụng đến hết ngày 31/12/2025; trường hợp cần thiết, UBND cấp tỉnh quyết định điều chỉnh bảng giá đất theo quy định của luật này cho phù hợp với tình hình thực tế về giá đất tại địa phương”. Đây là quy định chuyển tiếp, nhằm giúp các địa phương thực hiện lộ trình từng bước xây dựng bảng giá đất theo Luật Đất đai 2024 để áp dụng từ 1/1/2026. Đồng thời, giao quyền cho UBND cấp tỉnh quyết định việc điều chỉnh bảng giá đất hiện hành để thuận lợi, kịp thời trong tổ chức thực hiện.
Theo báo cáo của Sở TN&MT, hiện Sở đang tập trung xây dựng bảng giá đất, đồng thời, cam kết tham mưu cho UBND tỉnh ban hành trước ngày 15/12. Đối với nội dung này, đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, yêu cầu Sở TN&MT phải quan tâm thực hiện đúng cam kết về tiến độ ban hành bảng giá đất trước cử tri và nhân dân.
Thực tế cho thấy, từ khi Luật Đất đai có hiệu lực, các địa phương không áp dụng theo bảng giá đất hiện hành đã gây khó khăn trong nhân dân khi không thực hiện được các thủ tục về đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất; giao đất tái định cư; ảnh hưởng đến công tác thu ngân sách một số địa phương. Do đó, Chủ tọa kỳ họp đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương rà soát các quy định để tham mưu trình HĐND tỉnh và UBND tỉnh ban hành các quy định để triển khai Luật Đất đai đồng bộ. Đồng chí đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở TN&MT, UBND các huyện, thị xã, thành phố có kế hoạch cụ thể về xây dựng Bảng giá đất điều chỉnh, trong đó phân công trách nhiệm, thời gian thực hiện từng khâu, quy trình xây dựng bảng giá đất cho các cơ quan, đơn vị; thường xuyên kiểm đếm tiến độ thực hiện theo tuần, theo tháng; kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh (nếu có). Quá trình xây dựng bảng giá đất điều chỉnh theo Luật Đất đai 2024 cần xem xét một cách thận trọng, kỹ lưỡng, đánh giá tác động đối với đối tượng áp dụng, nhất là người dân và doanh nghiệp, có lộ trình, mức tăng phù hợp với từng khu vực, vị trí, loại đất; thực hiện lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, các cơ quan, tổ chức, đơn vị bằng các hình thức phù hợp theo quy định; tiếp thu, giải trình đầy đủ đối với các ý kiến góp ý… để Bảng giá đất điều chỉnh nhận được sự đồng thuận cao trong xã hội; không gây tác động lớn đến phát triển kinh tế- xã hội, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh. UBND tỉnh chủ động trong công tác chỉ đạo xây dựng Bảng giá đất mới để áp dụng từ ngày 1/1/2026, kịp thời báo cáo cơ quan có thẩm quyền để cho ý kiến xử lý các vướng mắc (nếu có) trong quá trình xây dựng; tránh để xảy ra tình trạng chậm trễ như việc xây dựng Bảng giá đất điều chỉnh, báo cáo đề xuất trình HĐND tỉnh thông qua tại kỳ họp phù hợp.
Kết luận nội dung chất vấn liên quan đến giao khu vực biển nuôi trồng thủy sản, đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp nhấn mạnh, tỉnh Quảng Ninh có diện tích trên 12.000km2, trong đó có gần 5.800km2 mặt biển. Đây là các điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế biển mà không phải địa phương nào cũng có, trong đó có hoạt động nuôi trồng thủy sản trên biển.
Xác định nuôi biển là lợi thế của tỉnh Quảng Ninh, song thời gian qua, tỉnh ta chưa phát huy được các lợi thế về phát triển kinh tế biển. Trong đó, phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa bền vững, có nơi, có lúc còn tự phát. Vùng nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao, theo chuỗi giá trị chưa nhiều; sản xuất còn nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình, chưa có tính liên kết, hiệu quả thấp, không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dịch bệnh, thị trường. Đối tượng nuôi chủ lực còn hạn chế, giá trị kinh tế chưa cao; quy trình kỹ thuật nuôi còn mang tính tự phát. Công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, nhất là công tác lập, quản lý và thực hiện quy hoạch; nguồn thu ngân sách từ việc giao khu vực biển, các hoạt động kinh tế trên biển thấp, không đáng kể, chưa có đóng góp lớn vào sự phát triển chung của tỉnh.
Đối với ý kiến của đồng chí Giám đốc Sở TN&MT Trần Như Long về việc “chưa biết bao giờ hoàn thành việc giao biển”, đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp bày tỏ không đồng tình. Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh nhấn mạnh, cơn bão số 3 vừa qua đã gây ra nhiều thiệt hại, mất mát, đau xót đối với người dân nuôi biển và thủy sản Quảng Ninh. Người dân phải đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc do chưa được giao biển.
Đối với nội dung này, đồng chí đề nghị UBND tỉnh quan tâm, chỉ đạo đánh giá rõ, cụ thể với việc giao biển, nhất là khu vực thuộc thẩm quyền của địa phương và tỉnh.
Nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển kinh tế biển, trong đó có công tác quản lý và phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản, trọng tâm là nuôi biển bền vững, thời gian tới, Chủ tọa kỳ họp đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành và UBND các địa phương tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thủy sản nói chung và giao khu vực biển nói riêng; đẩy nhanh tốc độ, hoàn thành giao khu vực biển; hình thành HTX, tăng quy mô, khoa học công nghệ; rà soát nhu cầu của nhân dân triển khai thực hiện đáp ứng nhu cầu của nhân dân; tiếp tục cơ cấu lại ngành thủy sản, phát triển lĩnh vực nuôi biển toàn diện theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, gia tăng giá trị.
Đối với UBND các địa phương tiếp tục công bố công khai, đầy đủ thông tin quy hoạch, đặc biệt là thông tin cụ thể tọa độ, ranh giới khu vực biển sắp xếp cho người dân và phục vụ thu hút đầu tư nuôi biển công nghiệp. Trên cơ sở đề án, phương án nuôi trồng thủy sản của địa phương, có kế hoạch giao khu vực biển trên địa bàn quản lý; rà soát, xác định cụ thể nhu cầu sử dụng khu vực biển nuôi trồng thủy sản của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn; phân rõ thẩm quyền giao khu vực biển, nhu cầu diện tích khu vực biển, đối tượng chuyển đổi nghề từ khai thác thủy sản ven bờ sang nuôi biển…; lộ trình, thời gian thực hiện từng nhiệm vụ, giải pháp; thường xuyên kiểm đếm tiến độ thực hiện, năng lực tài chính, kinh nghiệm, có ưu tiên đối với từng đối tượng, không để xảy ra việc lợi dụng chủ trương giao khu vực biển để đầu cơ mặt nước, tạo lợi ích nhóm; gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh
Đối với Sở NN&PTNT, Sở TN&MT, đồng chí Vi Ngọc Bích, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh đề nghị tăng cường tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn đầy đủ các quy trình, thủ tục cấp phép nuôi trồng thủy sản, giao khu vực biển, đánh giá tác động môi trường…; hỗ trợ tối đa cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính để nhân dân làm giàu, phát huy hiệu quả việc nuôi biển, phát triển kinh tế biển bền vững.
Các tổ chức chính trị, xã hội và sở, ngành và UBND các địa phương cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sống, môi trường biển của người dân, doanh nghiệp, du khách... giữ gìn, phát huy lợi thế của Quảng Ninh về kinh tế biển trong những năm gần đây và giai đoạn tiếp theo.
Nhóm PV
Liên kết website
Ý kiến ()