Tất cả chuyên mục

Là tài sản quan trọng và là nguồn lực phát triển, nhưng khoáng sản lại là một trong những loại tài nguyên không thể tái tạo được. Trong khi đó, việc thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản trên địa bàn tỉnh những năm qua tồn tại không ít những bất cập. Do vậy, “Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường và khoáng sản phân tán nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” vừa được UBND tỉnh phê duyệt, sẽ là căn cứ pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về khoáng sản, quản lý và bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, góp phần ngăn chặn, xử lý và chấm dứt tình trạng khai thác khoáng sản trái phép.
![]() |
Khai thác đá tấn mài tại Xí nghiệp Chế biến khoáng sản Hải Hà (huyện Hải Hà). |
Không chỉ đứng đầu cả nước về công nghiệp khai thác than, Quảng Ninh còn có một số loại hình khoáng sản đứng trong tốp đầu của Việt Nam và khu vực như đất sét, đá, cát thuỷ tinh. Những năm qua, ngành công nghiệp khai khoáng của tỉnh đã phát triển khá mạnh mẽ, từng bước trở thành trung tâm công nghiệp khai khoáng và sản xuất VLXD lớn của cả nước. Theo số liệu thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường, tổng trữ lượng tài nguyên đã điều tra thăm dò của các loại khoáng sản làm VLXD thông thường trên địa bàn toàn tỉnh là trên 3.560 triệu m3. Trong đó, sét gạch ngói là trên 306,585 triệu m3; đá xây dựng là 1.445 triệu m3; cát cuội sỏi tảng là 177,454 triệu m3; cát san lấp là 156,196 triệu m3. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có 118 khu vực đã cấp phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực, trong đó có 101 giấy phép do UBND tỉnh cấp (không kể tới các khu vực khai thác than). Trong những năm qua, các đơn vị khai thác và chế biến khoáng sản đã có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác đã gắn với chế biến và sử dụng khoáng sản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Công nghiệp khai thác khoáng sản làm vật liệu thông thường, nhất là đá xây dựng phát triển mạnh mẽ đã làm giảm giá thành đầu tư xây dựng, góp phần hoàn thành nhiều công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, các tuyến đường giao thông huyết mạch trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đã giải quyết việc làm cho nhiều người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội cho các địa phương.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường cũng còn có những hạn chế như: Hoạt động thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản mới tập trung vào một số khoáng sản điển hình; công tác khoanh định khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản (ngoài than) còn chậm; một số đơn vị đã quá thời hạn, không triển khai thực hiện giấy phép khai thác khoáng sản, ngược lại có những đơn vị khai thác vượt công suất, vượt giới hạn trong giấy phép; chưa tuân thủ theo thiết kế cơ sở và yêu cầu kỹ thuật, an toàn khai thác mỏ và quy định báo cáo định kỳ về kết quả khai thác và hiện trạng mỏ; công tác bảo vệ môi trường tại nhiều khu vực khai thác, chế biến khoáng sản chưa bảo đảm yêu cầu theo quy định, một số đơn vị chưa thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; công tác quản lý chất thải nguy hại tại một số đơn vị chưa thực hiện tốt... Mặt khác, một số đơn vị đã sử dụng đất để khai thác chế biến khoáng sản, nhưng chưa có hợp đồng và chưa nộp tiền thuê đất hoặc đã có hợp đồng thuê đất nhưng sử dụng vượt diện tích chưa làm thủ tục thuê đất bổ sung, có trường hợp cho thuê đất chồng lấn diện tích nên không triển khai sản xuất được...
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, vừa qua, UBND tỉnh đã phê duyệt đề án Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường và khoáng sản phân tán nhỏ lẻ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng. Theo đó, mục tiêu của Quy hoạch đến năm 2020 đáp ứng đủ số lượng, đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất VLXD phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm và đáp ứng tối đa nhu cầu VLXD cho các công trình hạ tầng giao thông, đô thị đặc biệt là các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; định hướng công tác thăm dò chuẩn bị nguồn trữ lượng khoáng sản, tiếp tục duy trì và đầu tư khai thác các mỏ đáp ứng cho giai đoạn năm 2030. Trên cơ sở đó, Quy hoạch đã đề ra 4 nhóm giải pháp thực hiện về quản lý nhà nước; cơ chế, chính sách; khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường; vốn đầu tư.
Như vậy, việc thông qua quy hoạch sẽ là cơ sở quan trọng để Quảng Ninh thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế xanh gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”.
Hoàng Nga
Ý kiến (0)