Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 16/11/2024 13:18 (GMT +7)
Real Madrid chạm mốc 100 cúp: Người cha vĩ đại Ancelotti
Thứ 2, 13/02/2023 | 16:18:58 [GMT +7] A A
Ở Rabat, Real Madrid cán mốc 100 danh hiệu với FIFA Club World Cup 2022, giải đấu mà HLV Carlo Ancelotti đóng vai trò không hề thầm lặng.
Cột mốc 100 của Real Madrid
Tất cả bắt đầu vào năm 1905 với Copa del Rey (Cúp nhà Vua) đầu tiên, tăng tốc vào năm 1932 khi lần đầu sưu tập được La Liga, đến năm 1956 vươn lên với chiếc cúp châu Âu đầu tiên, chạm bầu trời lục địa thêm 13 lần nữa và lần này, trên sân Hoàng tử Moulay Abdellah ở Rabat, thủ đô của Maroc, Real Madrid đoạt danh hiệu thứ 100 trong lịch sử.
Real Madrid lần thứ 5 vô địch FIFA Club World Cup. Trước đó, bộ sưu tập của đội có 35 La Liga, 19 Cúp nhà Vua, 12 Siêu cúp Tây Ban Nha, 1 Copa de La Liga, 14 Champions League, 3 Cúp Liên lục địa, 5 Siêu Cúp châu Âu, 2 UEFA Cup, 2 Latin Cup, 1 Copa Iberoamericana (chỉ tổ chức 1 lần năm 1994, giữa Real Madrid và Boca Juniors) và 1 Copa Eva Duarte - tiền thân Siêu Cúp Tây Ban Nha ngày nay.
Luôn có rất nhiều cuộc tranh luận về tính chính thức hay không của một số lượng đáng kể các danh hiệu.
Trong trường hợp Real Madrid, CLB tính hai chiến thắng Small Club World Cup (được tổ chức trong giai đoạn 1952-1975) các năm 1952 và 1957, vì vậy bộ sưu tập có tổng cộng 102 cúp khác nhau. Nhưng UEFA và FIFA đều không coi giải đấu là chính thức.
Tuy nhiên, cả FIFA và Real Madrid có đề cập đến Copa Iberoamericana, được tổ chức bởi CONMEBOL (LĐBĐ Nam Mỹ) và Liên đoàn Tây Ban Nha.
Danh hiệu bóng đá thứ 100, theo công nhận của FIFA, cũng là chiếc cúp thứ 31 mà Real Madrid chiến thắng trong các nhiệm kỳ của chủ tịch Florentino Perez. Kết quả này giúp ông cân bằng kỷ lục với chủ tịch huyền thoại Santiago Bernabeu, người được đặt cho tên sân hiện tại.
"Hãy tiếp tục, bởi vì ở Real Madrid, mọi thứ giành được đều là điểm khởi đầu cho những chiến thắng sau đây", ông Perez hài lòng với chiến công mới nhất, mang về tiền thưởng 5 triệu USD.
Người đứng đầu "Los Merengues" nhấn mạnh: "Giống như bài hát truyền thống của CLB nhắc đến, cựu binh và những người mới. Sự kết hợp đó, cùng một HLV tuyệt vời như Ancelotti, đã tạo ra thành quả này".
Hài lòng với cột mốc 100 chiếc cúp trong phòng truyền thống, Chủ tịch Perez không quên cảm ơn các Madridista: "Tôi rất hài lòng. Trong đội này, ngoài những cầu thủ tuyệt vời, còn có các CĐV đặc biệt. Điều đó giúp chúng tôi trở nên bất khả chiến bại".
Về mặt cá nhân, Karim Benzema vừa có danh hiệu 25 với Real Madrid, cân bằng kỷ lục mà Marcelo nắm giữ trong lịch sử CLB. Xếp sau là Gento - người có 23 chiếc cúp, và Nacho Fernandez - người vừa ngang với Sergio Ramos về con số 22 danh hiệu.
Trong khi đó, Toni Kroos là thủ lĩnh của FIFA Club World Cup. Anh có 5 lần đăng quang với Real Madrid, cùng các đồng đội Benzema, Nacho, Luca Modric và Dani Carvajal. Ngoài ra, năm 2013, tiền vệ người Đức nâng cao danh hiệu này với Bayern Munich.
Người cha vĩ đại Ancelotti
Zinedine Zidane có thể giữ kỷ lục dẫn Real Madrid vô địch Champions League trong 3 mùa liên tiếp, nhưng người có ảnh hưởng nhất trong kỷ nguyên Perez là Carlo Ancelotti.
Trong hai nhiệm kỳ huấn luyện, chiến lược gia người Italy đều cùng Real Madrid vô địch châu Âu.
Chiến thắng năm 2014, cột mốc "La Decima" (chức vô địch thứ 10) mang ý nghĩa rất quan trọng. Vinh quang tại Lisbon, Bồ Đào Nha, giúp Real Madrid chấm dứt nỗi khắc khoải Champions League, với những vấn đề tâm lý trong đội mà Jose Mourinho cũng không thành công.
Giống như Perez nhấn mạnh về bài hát truyền thống của CLB, Ancelotti kết hợp tuyệt vời các cựu binh với những người trẻ.
Cựu binh ở đây là Benzema, Kroos, Modric. Những người trẻ tiêu biểu có Vinicius Junior và Federico Valverde. Họ đều xem Ancelotti là cha của mình, trong đại gia đình ở Valdebebas.
Ancelotti luôn bảo vệ Vinicius khi cầu thủ này bị tấn công về thể xác và tinh thần tại La Liga. Nhờ vậy, cầu thủ người Brazil xuất sắc nhất tại kỳ FIFA Club World Cup 2022.
Vinicius (22 tuổi và 214 ngày), dưới sự hỗ trợ của Ancelotti, đánh bại huyền thoại Lionel Messi (24 tuổi và 177 ngày) để trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử ghi cú đúp trong trận chung kết FIFA Club World Cup.
Không chỉ vậy, Vinicius là cầu thủ đầu tiên ghi từ 2 bàn và có ít nhất 1 pha kiến tạo trong trận chung kết FIFA Club World Cup.
Nếu tính cả Cúp Liên lục địa cũ, Vini là trường hợp thứ ba có thành tích này, sau các huyền thoại Ferenc Puskas (Real Madrid, 1960) và Pele (Santos, 1962).
Quả bóng Vàng FIFA Club World Cup 2022 cho Vinicius, và Quả bóng Bạc cho Valverde.
Sau 13 trận im lặng, đặc biệt là khoảng thời gian khó khăn khi trở về từ Qatar, Valverde vừa ghi bàn trong hai trận liên tiếp. Niềm vui trở lại với cầu thủ người Uruguay.
Khi Real Madrid thắng Al-Hilal 5-3, trận chung kết Cúp thế giới nhiều bàn thắng nhất, Valverde lao đến ôm Ancelotti. "Ông ấy đã giúp tôi rất nhiều trong lúc khó khăn". Anh cảm ơn người cha đã luôn tin tưởng vào chính mình khi sa sút.
Valverde đã có 11 bàn mùa này, như Ancelotti từng thách thức anh trong mùa hè năm ngoái. "Thật may, cuối cùng tôi không phải xé bằng HLV của mình", Carletto đáp lại Fede bằng một cái ôm thân thiện.
Sau vinh quang ở Rabat, người cha Ancelotti cùng những người con của mình trở lại cho những chiến dịch quan trọng khác: vượt qua Barca trên bảng xếp hạng La Liga, chinh phục Cúp nhà Vua và đặc biệt là bảo vệ ngôi quán quân Champions League.
Danh sách 100 chiếc cúp của Real Madrid | ||
Giải đấu | Số lần vô địch | Chi tiết |
La Liga | 35 | 1931-32, 1932-33, 1953-54, 1954-55, 1956-57, 1957-58, 1960-61, 1961-62, 1962-63, 1963-64, 1964-65, 1966-67, 1967-68, 1968-69, 1971-72, 1974-75, 1975-76, 1977-78, 1978-79, 1979-80, 1985-86, 1986-87, 1987-88, 1988-89, 1989-90, 1994-95, 1996-97, 2000-01, 2002-03, 2006-07, 2007-08, 2011-12, 2016-17, 2019-20, 2021-22 |
Cúp nhà Vua | 19 | 1905, 1906, 1907, 1908, 1917, 1934, 1936, 1946, 1947, 1961-62, 1969-70, 1973-74, 1974-75, 1979-80, 1981-82, 1988-89, 1992-93, 2010-11, 2013-14 |
Copa de la Liga | 1 | 1985 |
Siêu Cúp Tây Ban Nha | 12 | 1988, 1989, 1990, 1993, 1997, 2001, 2003, 2008, 2012, 2017, 2019-20, 2021-22 |
Copa Eva Duarte | 1 | 1947 |
Champions League | 14 | 1955-56, 1956-57, 1957-58, 1958-59, 1959-60, 1965-66, 1997-98, 1999-2000, 2001-02, 2013-14, 2015-16, 2016-17, 2017-18, 2021-22 |
UEFA Cup | 2 | 1984-85, 1985-86 |
Siêu Cúp châu Âu | 5 | 2002, 2014, 2016, 2017, 2022 |
Latin Cup | 2 | 1955, 1957 |
FIFA Club World Cup | 5 | 2014, 2016, 2017, 2018, 2022 |
Cúp Liên lục địa | 3 | 1960, 1998, 2002 |
Copa Iberoamericana | 1 | 1994 |
Theo Vietnamnet
Liên kết website
Ý kiến ()