Tất cả chuyên mục

Trần Nhuận Minh là nhà thơ khá nhạy cảm trước mọi vấn đề của đời sống phức tạp, ông luôn có nhu cầu nhận thức, đánh giá cuộc sống trong chiều sâu bản chất. Vì vậy, những trạng thái, những mặt biểu hiện của đời sống xã hội, luôn được nhà thơ đặt trong mối quan hệ tương phản, đối lập và không dễ nắm bắt bằng vẻ ngoài.
Đối với ông, chiến tranh là hiện tượng đặc biệt trong đời sống con người, nó trái với quy luật thông thường, chiến tranh chỉ đem lại đau thương, mất mát. Đó là cái giá khủng khiếp mà bất cứ một dân tộc có chiến tranh nào cũng phải trả để đi đến cái đích cuối cùng: Hàng triệu triệu Người/ Lần lượt lao vào lửa đạn/ Cho Tổ quốc/ Sáng bừng tên tuổi/ Rồi để lại những nấm mồ vô danh/Trắng đến tận chân trời… Hay: Tên tuổi một vị Tướng/ Làm bằng xác chết hàng ngàn người (…) Ngai vàng đúc bằng thây trăm họ/ Cho một người ngồi… (45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh).
Không cần bàn luận cũng thấy được sự tương phản trong những dòng thơ đó rồi. Đặc biệt, chiến tranh hiện lên qua số phận người lính - những người hát bè trầm trong dàn hợp xướng hào hùng của dân tộc ở thời kỳ chống Mĩ, giờ đây giữa đời thường họ đang phải trải qua những nỗi đau trần thế, những bi kịch xót xa, bất ngờ đến kinh hoàng. Ông chỉ ra cái trái ngược của một người lính: trong chiến tranh giữ chức vụ đại tá, chỉ huy biết bao lính chiến đấu kiên cường, nhưng khi hết chiến tranh, người đại tá ấy lại làm một công việc hết sức bình thường để kiếm sống: “Đại tá về hưu đi bơm xe”. Còn đám thanh niên trai tráng đang được hưởng thành quả hoà bình, lí ra phải học hành, làm người có ích để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, thì ở đây chỉ “uống rượu say trong quán”. Thậm chí, Trần Nhuận Minh còn chỉ ra sự tương phản, đối lập nhưng lại hết sức có lí: Có lắm anh hùng, đất nước bình yên là một điều vĩ đại/ Không cần có lắm anh hùng, đất nước vẫn bình yên, còn vĩ đại hơn nhiều! (Năm khúc hát bên bờ Trường Giang).
Thời kỳ đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh tiếp tục nói lên những tương phản, đối lập trong đời thường, mà đâu đó ta có thể bắt gặp. Một thím Hai Vui chỉ yên ổn trong những năm chiến tranh khi chồng thím đi lính, còn khi hoà bình, người chồng trở về, lúc này chiến tranh “mới đến thật với thím” (Thím Hai Vui). Một cô Bổng là giáo viên, từng được bầu đi dự đại hội cấp trên, rõ cô phải là người tốt, có tư tưởng tiến bộ, là tấm gương cho nhiều người học tập, vậy mà về hưu là thầy bói quẻ ở đền (Cô Bổng)... Có lúc, Trần Nhuận Minh sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập khiến ta không thể ngờ: “Về hưu mới là vào cuộc sống!”. Một người bạn của nhà thơ khi đang làm ở rạp chiếu bóng, người bạn này luôn coi thường danh lợi, “nói đó là niềm kiêu hãnh” của mình: “Khi đi chiếc ba lô/ Bây giờ về vẫn thế/ (…)Giữ mình trong liêm chính kiệm cần”. Thế nhưng, khi đến tuổi về hưu, người bạn ấy lại rơi vào tình cảnh: “Nghề nghiệp không/ Sức vóc thì ẻo lả/ Hàng mất giá cũng đua nhau lên giá/ Đồng lương hưu như một nỗi vu vơ…” (Tiễn bạn ở rạp chiếu bóng).
Vấn đề lương và giá cả cũng được ông chia sẻ một cách hóm hỉnh trong bài Thơ xuân viết bên núi Bài Thơ: Đồng lương vẫn thấp thôi/ Giá chợ cao chóng mặt/ Vợ mình không cáu gắt/ Ấy là điều rất hay…
Quả đúng như vậy, cuộc sống hiện thực nhiều khi đi ngược lại với ước mong, niềm tin, hi vọng của con người. Chân dung cụ Hãn trong phút lâm chung thật đáng để chúng ta suy nghĩ. Cụ là một con người suốt đời tận tuỵ với công việc - một công việc bình thường là soát vé trong rạp chiếu phim. Cụ đã xử tệ với bao em bé không có tiền, tìm mọi cách vào xem phim bằng được. Thực ra, hành động của cụ chỉ xuất phát từ suy nghĩ thực hiện nhiệm vụ theo đúng nguyên tắc và muốn làm giàu cho đất nước. Vậy mà, đến phút lâm chung cụ nhắm mắt cũng không yên (Phút lâm chung của cụ Hãn). Sự tương phản, đối lập còn thể hiện qua mong ước của người cha cho con đi học, làm luận án tiến sĩ ở Liên Xô, ngờ đâu con ông lại trở thành tướng cướp (Chú sang Liên Xô có gặp cháu). Em bé đi đào than thổ phỉ để lấy tiền nuôi mẹ, nuôi em nhưng chưa đạt được ước nguyện thì phải trả giá bằng cả tính mạng của mình (Cháu đi đào than thổ phỉ). Vẫn chưa hết, Trần Nhuận Minh còn vận dụng thủ pháp nghệ thuật này khi viết về nhà thơ - vị “quý tộc tinh thần của đất nước” nhưng sống bằng nghề áp tải hàng với bao vui buồn, sướng khổ trong công việc (Nhà thơ áp tải). Đôi khi nhà thơ lại hóm hỉnh: “thương các Cụ” đã “chết rồi” nên làm sao được sung sướng “như tôi thế này!…”. Chỉ là nhà thơ kể chuyện Làng tôi thành quán… hết rồi, ai nấy mải mê ăn nhậu, xướng ca, rồi ngậm ngùi nhớ đến các Cụ đã về cõi từ lâu, không được sướng vui cùng con cháu.
Nhưng trong thơ Trần Nhuận Minh, đan xen những mối quan hệ tương phản, đối lập, nhà thơ chỉ ra những quy luật của muôn đời không thể thay thế được: - Luôn lo xa. Hoạ vẫn cứ đến gần/ Kẻ hiểm ác thường có khuôn mặt đẹp (45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh) - Cả xã hội diệt trừ cái ác/ Cái ác vẫn ngang nhiên cười nói giữa đời… (Tự thuật).
Cho dù quy luật của muôn đời vẫn thế, nhưng Trần Nhuận Minh vẫn luôn theo đuổi tâm niệm nghề nghiệp của mình: Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn/ Ngàn năm bay ngược bão/ Mang sấm sét của những vùng chưa qua/ Mang ánh trăng của những thời chưa tới/ Cái mong manh thắng được cả sắt thép/ Bền vững đến muôn đời… (Bản Xônát hoang dã).
Có thể nói, với việc sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, Trần Nhuận Minh không chỉ phản ánh cuộc sống một cách sâu sắc, mà còn góp phần làm phong phú thêm diện mạo thơ ông nói riêng và thơ Việt Nam nói chung...
Dương Quỳnh Trang (CTV)
Ý kiến ()