Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 30/04/2024 04:08 (GMT +7)
Bổ sung nguồn lực tài chính cho công tác phát triển và bảo vệ rừng
Thứ 5, 04/07/2019 | 07:51:04 [GMT +7] A A
Nhằm góp phần thực hiện cam kết quốc tế về giảm 8% lượng phát thải nhà kính, trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất nhiệt điện và xi măng phải thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đối với hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng. Theo dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Quảng Ninh sẽ là một trong 4 tỉnh, thành trên cả nước thí điểm triển khai việc chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các-bon của rừng.
Năm 2018, Công ty Nhiệt điện Uông Bí đã tiêu thụ khoảng 1,1 triệu tấn than. |
Năm 2011, chính sách chi trả DVMTR đã được triển khai trên cả nước, trở thành một chính sách đột phá của ngành Lâm nghiệp trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước, nguồn vốn xã hội cho bảo vệ và phát triển rừng. Trong đó, phần lớn là nguồn thu từ các cơ sở sản xuất thủy điện, sản xuất nước sạch và du lịch. Một số đối tượng sản xuất khác như: Công nghiệp, cơ sở nuôi trồng thủy sản... dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các-bon vẫn chưa được áp dụng, do thiếu quy định và hướng dẫn cụ thể.
Để có cơ sở nghiên cứu, triển khai rộng rãi chính sách trên cả nước, trước mắt Chính phủ sẽ triển khai thí điểm dịch vụ này đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiệt điện, xi măng tại 4 địa phương là Quảng Ninh, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Thanh Hóa. Đây đều là những địa phương có số lượng lớn các nhà máy nhiệt điện và xi măng đang hoạt động và là các cơ sở phát thải CO2 lớn nhất do sử dụng nhiều năng lượng (đặc biệt là than) cho quá trình sản xuất.
Hiện trên địa bàn tỉnh có 4 công ty xi măng và 7 nhà máy nhiệt điện đang hoạt động. Trong 10 năm trở lại đây, lượng than tiêu thụ tại các nhà máy nhiệt điện khá lớn, trong đó, Nhiệt điện Quảng Ninh và Nhiệt điện Mông Dương 2 có lượng tiêu thụ từ 2,6-3,5 triệu tấn than/năm, dẫn đến lượng phát thải CO2 từ 1,5-7,3 triệu tấn/năm. Đối với các nhà máy xi măng, lượng than tiêu thụ thấp hơn, tuy nhiên lượng CO2 phát thải cũng khá lớn, từ 0,7-3,1 triệu tấn/năm. Với con số này, trong 4 địa phương triển khai thí điểm, mức phát thải CO2 trong lĩnh vực xi măng và nhiệt điện ở Quảng Ninh khá cao, khi tổng phát thải của 2 ngành đã lên tới con số gần 32 triệu tấn/năm.
Cán bộ Ban quan lý Rừng phòng hộ Yên Lập kiểm tra rừng. |
Theo tính toán của Bộ NN&PTNT, khả năng hấp thụ CO2 của rừng ở Quảng Ninh là 3,4 triệu tấn/năm và khả năng lưu giữ CO2 của rừng là gần 23 triệu tấn/năm. Bộ NN&PTNT cũng đề xuất mức tiền chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các- bon của rừng tính bình quân cho 1 đơn vị sản phẩm đối với nhiệt điện than là khoảng 4 đồng/kWh và khoảng 3.100 đồng/tấn clinker. Với mức tiền đề xuất này, dự kiến mỗi năm tỉnh sẽ thu được từ các nhà máy nhiệt điện và xi măng khoảng hơn 121 tỷ đồng/năm.
Đây sẽ là nguồn thu đáng kể để phục vụ công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng tại địa phương so với con số ít ỏi là 4 tỷ đồng như hiện nay. Qua đó, gia tăng khả năng lưu trữ và hấp thụ các-bon của rừng, chuyển CO2 trong khí quyển thành sinh khối trong cây. Đồng thời, làm gia tăng các sản phẩm và dịch vụ sinh thái từ rừng, hạn chế sự gia tăng nồng độ CO2 trong khí quyển, giảm cường độ hiệu ứng nhà kính - một tác nhân đang gây biến đổi khí hậu.
Ông Lê Quốc Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, khẳng định: Đây là công cụ kinh tế nhằm điều chỉnh hành vi của tổ chức, cá nhân theo hướng đưa chi phí giảm thiểu việc phát thải khí, gây hiệu ứng nhà kính ra môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc “người gây phát thải khí nhà kính phải trả tiền”. Mặc dù, tiền chi trả dịch vụ hấp thu và lưu giữ các-bon sẽ làm tăng giá thành sản xuất, nhưng đơn vị đã tính toán để mức tiền này phù hợp với tốc độ tăng giá thành sản xuất của các đơn vị.
Theo ghi nhận của phóng viên, hiện nay các doanh nghiệp nhiệt điện và xi măng trên địa bàn tỉnh đều bày tỏ quan điểm đồng thuận với chủ trương của Chính phủ. Tuy nhiên, theo ý kiến của các doanh nghiệp, việc chi trả đối với dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng là vấn đề mới, phức tạp; gây không ít vướng mắc cho doanh nghiệp và cần được tháo gỡ trước khi đưa vào triển khai chính thức.
Ông Đỗ Trung Kiên, Phó Giám đốc Công ty Nhiệt điện Uông Bí chia sẻ: Việc chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng dẫn tới việc phải hạch toán vào giá thành sản xuất điện, điều này sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo tính công bằng, chúng tôi cần có cơ chế giảm trừ tiền cho các doanh nghiệp tham gia thí điểm. Bên cạnh đó, mức chi trả cũng cần được tính toán dựa trên công nghệ sản xuất, lượng than tiêu thụ, lượng khí phát thải cụ thể của từng đơn vị…
Hoàng Nga
[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()