Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 24/12/2024 20:33 (GMT +7)
Nghị quyết số 06 - Động lực phát triển mới của khu vực miền núi, biên giới, hải đảo
Thứ 7, 12/03/2022 | 12:45:15 [GMT +7] A A
Ngay sau khi Nghị quyết 06-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnhvề phát triển bền vững KT-XH gắn với đảm bảo vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 được ban hành, các cấp ủy của Quảng Ninh đã triển khai học tập, quán triệt, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp. Đến nay, sau 1 năm triển khai thực hiện, Nghị quyết đã đi vào cuộc sống, từng bước nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), kéo giảm chênh lệch vùng miền trên địa bàn.
Nghị quyết của ý Đảng - lòng dân
Không bằng lòng với những thành quả đạt được khi ở nhiều vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh, người dân vẫn còn có cuộc sống khó khăn, chất lượng các dịch vụ chưa được đảm bảo, ngày 17/5/2021 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV đã ban hành Nghị quyết 06-NQ/TU về phát triển bền vững KT-XH gắn với đảm bảo vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Nghị quyết xác định mục tiêu đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh tăng tối thiểu 2 lần so với năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 3%/năm; không còn nhà tạm, nhà dột nát; cơ bản giải quyết dứt điểm nhu cầu cấp thiết về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… Mục tiêu đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh tối thiểu bằng 1/2 thu nhập bình quân chung của tỉnh; duy trì giảm tỷ lệ hộ nghèo trung bình 1,5%/năm. Các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh có hệ thống kết cấu KT-XH đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể, kết nối thuận lợi với các vùng phát triển của tỉnh.
Đây là Nghị quyết của ý Đảng - lòng dân, thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với lợi ích phát triển chung của tỉnh và nhu cầu hưởng thụ của nhân dân; hoàn toàn phù hợp với bối cảnh hiện tại, khi mà cả tỉnh đang bước vào giai đoạn phát triển mới theo định hướng là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, động lực tăng trưởng kinh tế bền vững của khu vực phía Bắc, thành phố trực thuộc Trung ương trước năm 2030.
Ông Phạm Hồng Sơn, cán bộ lão thành, cư trú tại khu 5B, phường Quang Trung (TP Uông Bí), chia sẻ: Qua theo dõi trên các phương tiện truyền thông, cá nhân tôi đánh giá rất cao tinh thần trách nhiệm của tỉnh, mà trực tiếp là Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy đã dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Riêng Nghị quyết 06-NQ/TU đã thể hiện tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, lo lắng trước những nỗi niềm khó khăn của người dân vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Nghị quyết đi vào cuộc sống đã đáp ứng mong mỏi, kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân.
Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, cả hệ thống chính trị đã cùng nhau vào cuộc một cách quyết liệt, với một loạt các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch được HĐND tỉnh, UBND tỉnh ban hành, như Nghị quyết 16/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh; Chương trình hành động 4594/CTr-UBND ngày 19/7/2021 của UBND tỉnh; Nghị quyết 50/NQ-HĐND ngày 13/11/2021 của HĐND tỉnh; Quyết định 4832/QĐ-UBND ngày 31/12/2021 của UBND tỉnh.
Đặc biệt, tại Chương trình hành động số 4594/CTr-UBND ngày 19/7/2021 của UBND tỉnh đã giao nhiệm vụ, tổ chức thực hiện đối với từng sở, ban, ngành, địa phương, với 21 nhóm mục tiêu, chỉ tiêu và 73 nhiệm vụ cụ thể. Trong đó đã tích hợp đầy đủ các nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 để triển khai thực hiện đồng bộ, đảm bảo khoa học, hiệu quả. Đến nay, 27 sở, ngành thuộc tỉnh và 13/13 địa phương đã cụ thể hóa, xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU và Chương trình hành động số 4594/CTr-UBND.
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Tường Văn cho biết: UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương phải bám sát vào nội dung, chỉ tiêu Nghị quyết đã xác định; lĩnh vực, ngành mình phụ trách để xây dựng kế hoạch cho phù hợp, sát thực tiễn. Đặc biệt, có 8 địa phương trọng điểm vùng đồng bào DTTS đã xác định rõ mục tiêu, định hướng cần thực hiện, từ đó đã đề xuất được các dự án, công trình cần triển khai đầu tư xây dựng; cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của người dân.
Từng bước thu hẹp chênh lệch vùng miền
Nghị quyết 50/NQ-HĐND ngày 13/11/2021 của HĐND tỉnh xác định tổng nguồn vốn thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU giai đoạn 2021-2025 tối thiểu 4.200 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách tỉnh 2.500 tỷ đồng, vốn ngân sách huyện 1.500 tỷ đồng, vốn huy động hợp pháp khác 200 tỷ đồng. Căn cứ nguồn vốn được duyệt, đến nay UBND tỉnh đã xây dựng được kế hoạch, lộ trình đầu tư 101 công trình hạ tầng động lực, thiết yếu tại các địa phương có đông đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo. Trong đó có 26 công trình giao thông, 30 công trình thủy lợi, 15 công trình giáo dục, 6 công trình y tế, 10 công trình văn hóa, 2 công trình chợ thương mại, 12 công trình nước sinh hoạt.
Ông Hoàng Quang Hải, Giám đốc Sở GT-VT, cho biết: Các công trình, dự án này đều kết nối các khu vực tiềm năng phát triển về du lịch, thương mại vùng khó khăn ở Ba Chẽ, Bình Liêu với các địa phương phát triển Hạ Long, Móng Cái; các tuyến đường giao thông liên huyện Ba Chẽ - Tiên Yên; các tuyến đường giao thông kết nối từ QL18C đến các xã Đồng Văn, Lục Hồn (Bình Liêu); từ QL4B kết nối với cửa khẩu Hoành Mô, kết nối với tuyến đường Ba Chẽ - Hạ Long; các tuyến đường liên xã kết nối giữa các xã vừa ra khỏi diện khó khăn và đặc biệt khó khăn khi thực hiện sáp nhập địa giới hành chính; các tuyến đường kết nối 3 cửa khẩu Hoành Mô - Bắc Phong Sinh - Móng Cái.
Bám sát mục tiêu của tỉnh đề ra, huyện Tiên Yên đã triển khai các nhiệm vụ, giải pháp từ rất sớm gắn với công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân thông qua xây dựng nhiều dự án đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế phù hợp. Tuyến đường nối xã Đại Thành trước đây sang xã Đại Dực là một trong những dự án đầu tiên được huyện Tiên Yên triển khai đầu tư nhằm cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tuyến đường có chiều dài hơn 7km, với tổng mức đầu tư 156 tỷ đồng.
Xác định được ý nghĩa, tầm quan trọng của tuyến đường mang lại lợi ích cho người dân địa phương vùng đồng bào DTTS, ngay sau khi tiến hành khởi công giữa năm 2021, các đơn vị liên quan của huyện Tiên Yên cùng liên danh nhà thầu đã tích cực vào cuộc đẩy mạnh thi công.
Ông Hà Hải Dương, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên, chia sẻ: Đây là tuyến đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra không gian phát triển mới cho xã Đại Dực sau sáp nhập; thuận lợi cho người dân địa phương đi lại, giao thương, phát triển KT-XH. Do vậy tuyến đường nhận được sự quan tâm rất nhiều từ các đồng chí lãnh đạo tỉnh. Chỉ trong vòng một tháng (từ tháng 10 đến tháng 11/2021), cả Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh đều đi kiểm tra, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh thi công dự án này. Hiện tại dự án đang gấp rút được các đơn vị liên quan triển khai thi công, phấn đấu hoàn thành, đưa dự án vào sử dụng trong năm 2022, đáp ứng lòng mong đợi của người dân.
Còn tại huyện vùng cao Ba Chẽ, với đặc thù là một huyện có nhiều diện tích đất rừng, địa phương đã nhanh chóng hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho tổ chức, hộ gia đình tham gia quản lý, trồng, chăm sóc theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng gắn với thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TU ngày 28/11/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Từ năm 2020 đến nay, huyện Ba Chẽ đã giao, cho thuê đất với diện tích gần 2.500ha tới 286 hộ gia đình, cá nhân tại 8 xã, thị trấn. Trong đó có 116 gia đình, cá nhân ký cam kết trồng rừng gỗ lớn với diện tích đăng ký trên 375ha.
Ông Vi Thành Vinh, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Ba Chẽ, cho biết: Chỉ tính riêng năm 2021, toàn huyện có trên 930ha trồng rừng gỗ lớn, đạt trên 140% kế hoạch năm. Trong đó, người dân chiếm đa số với diện tích trồng trên 830ha, còn lại là các tổ chức, doanh nghiệp, HTX. Những loại cây gỗ lớn được tập trung trồng là giổi trên 49ha, thông mã vĩ 3ha, lim xanh trên 60ha, quế gần 280ha…
Đặc biệt, bám sát định hướng mục tiêu phát triển của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết 06-NQ/TU, huyện Ba Chẽ đã thành lập tổ công tác, tuyên truyền, vận động người dân đăng ký trồng rừng gỗ lớn nhằm đem lại thu nhập kinh tế cao. Mục tiêu phấn đấu trong năm 2022, huyện Ba Chẽ sẽ trồng 1.170ha rừng gỗ lớn và cây bản địa, trong đó diện tích trồng lim, giổi, lát, sồi là 510ha; quế, sa mộc, thông 660ha.
Ông Chu Văn Cử (dân tộc Tày), thôn Đồng Tán, xã Minh Cầm (huyện Ba Chẽ), cho biết: Người dân chúng tôi được Đảng, Nhà nước quan tâm giao đất, giao rừng để trồng rừng, chúng tôi cam kết sẽ sử dụng hiệu quả quỹ đất được giao, trồng và phát triển rừng cây gỗ lớn, đặc biệt sẽ chuyển đổi trồng keo, bạch đàn trước đây sang trồng lim, lát, giổi cho giá trị kinh tế cao, kết hợp trồng những loại cây dược liệu dưới tán rừng gỗ lớn, từng bước nâng cao đời sống, thu nhập, vươn lên làm giàu bền vững.
Hiện nay, để đảm bảo nguồn vốn vay hỗ trợ các hộ gia đình phát triển kinh tế tại 67 xã trên địa bàn tỉnh thuộc phạm vi thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU, Ngân hàng CSXH tỉnh đã triển khai cho vay với dư nợ trên 1.400 tỷ đồng cho 36.460 hộ dân vay, bình quân dư nợ mỗi xã là 22 tỷ đồng/xã, cao hơn bình quân chung của tỉnh là 2,1 tỷ đồng/xã. Nguồn vốn vay được người dân sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, lựa chọn những mô hình, việc làm phù hợp với điều kiện thực tế, nhất là làm phong phú, nâng cao chất lượng các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP.
Tính đến nay, khu vực đồng bào DTTS, vùng núi, biên giới, hải đảo của tỉnh đã có 96 sản phẩm nông nghiệp của người dân tham gia Chương trình OCOP, trong đó có 3 sản phẩm đạt 3 sao trở lên của 24 chủ thể sản xuất thuộc các địa phương Ba Chẽ, Bình Liêu, Móng Cái, Cô Tô. Một số sản phẩm tiêu biểu như: Trà hoa vàng của xã Đạp Thanh (Ba Chẽ), xã Bắc Sơn (Móng Cái); các sản phẩm ba kích của Ba Chẽ; miến dong của Bình Liêu; mực khô Cô Tô.
Những kết quả tích cực đạt được sau gần 1 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU đã phản ánh đúng và đầy đủ những cố gắng, nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc tập trung cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân vùng đồng bào DTTS, vùng núi, biên giới, hải đảo. Kết quả này là động lực để toàn tỉnh tiếp tục hoàn thành toàn diện những mục tiêu như đã định, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, đảm bảo mọi người dân đều được hưởng thành quả phát triển của tỉnh.
Mạnh Trường
Liên kết website
Ý kiến ()