Tất cả chuyên mục
Thứ Hai, 23/12/2024 18:53 (GMT +7)
Gắn kết vùng đồng bằng Sông Hồng phát triển thịnh vượng
Chủ nhật, 12/02/2023 | 16:13:22 [GMT +7] A A
Với chủ đề “Liên kết phát triển - Đổi mới sáng tạo - Xanh và Bền vững”, Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị là sự kiện chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH), mở ra cơ hội mới đột phá cho vùng đất là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của đất nước.
Mở ra cơ hội mới
Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị có chỉ rõ, thời gian qua, các cấp, ngành, nhất là các địa phương vùng ĐBSH đã khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế, tiếp tục khẳng định vai trò là vùng kinh tế động lực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Một số địa phương phát triển bứt phá, trở thành điểm sáng của vùng và cả nước, như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của vùng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế còn chậm; các địa phương phát triển không đồng đều, tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động; cơ cấu thu ngân sách ở một số địa phương chưa bền vững…
Từ những thách thức đặt ra, phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng, khẳng định: Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW được xây dựng trên cơ sở bám sát quan điểm, mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 30-NQ/TW nhằm xây dựng ĐBSH là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới; trung tâm hàng đầu của cả nước về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, thông minh; hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh xanh, bền vững phù hợp với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước.
Chương trình hành động của Chính phủ đã đề ra 21 mục tiêu cụ thể, 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm; 36 nhiệm vụ cụ thể, 20 dự án kết cấu hạ tầng và phân công cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện, có lộ trình thời gian thực hiện cụ thể. Nhiều đại biểu tham dự hội nghị, cho rằng: Chương trình hành động của Chính phủ là căn cứ để các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSH xây dựng chương trình, kế hoạch hành động của từng bộ, cơ quan và địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, phấn đấu cao nhất đạt được các mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết số 30-NQ/TW.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng, khẳng định: Quán triệt quan điểm, mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương tập trung mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của Vùng. Trong đó, sẽ quyết tâm đầu tư hoàn thành các tuyến cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng, Nội Bài - Hạ Long, Cổ Tiết - Chợ Bến; các tuyến liên kết vùng để phát triển các hành lang, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế, tạo đột phá phát triển vùng. Đặc biệt, sẽ đầu tư tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Cái Lân; triển khai các tuyến đường sắt đô thị kết nối đô thị vệ tinh của Hà Nội.
Còn Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, cho rằng: Chương trình hành động của Thủ tướng Chính phủ sẽ giúp các ngành chức năng hoàn thiện thể chế nhằm phát triển các ngành công nghiệp vùng ĐBSH theo hướng hiện đại, cạnh tranh, giá trị gia tăng cao và tham gia sâu, toàn diện vào mạng sản xuất chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong định hướng phát triển, mỗi một địa phương của vùng ĐBSH đều gắn với những tiềm năng, thế mạnh của mình, hình thành các chuỗi đô thị, đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa. Trong đó, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh gắn với phát triển vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ; chuỗi đô thị tại các tỉnh, thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Ninh Bình và Nam Định gắn với phát triển kinh tế biển; chuỗi đô thị tại tỉnh Hưng Yên, Hà Nam gắn với hạ tầng y tế - giáo dục cấp vùng và giảm tải cho các đô thị lớn; chuỗi đô thị thuộc các hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ, logistics.
Tối ưu hóa các giải pháp phát triển
Các đại biểu tham dự hội nghị cho rằng, để vùng ĐBSH phát triển bền vững, thịnh vượng, với mục tiêu tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt khoảng 9%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 247 triệu đồng/người/năm; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 7%..., các cấp, các ngành cần đổi mới tư duy phát triển, đẩy mạnh quyết tâm xây dựng và phát triển vùng, nhất là liên kết vùng, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, xây dựng hệ thống đô thị thông minh, hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phân bổ nguồn lực và quan hệ đối ngoại nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng; giải quyết các vấn đề quốc gia tại vùng, các vấn đề liên ngành, liên vùng.
Trong phát triển kinh tế, các đại biểu cho rằng, cần quan tâm phát triển kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển. Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi để xây dựng và phát triển khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại mang tầm quốc tế, hàng đầu Đông Nam Á, là cửa ngõ, động lực phát triển của vùng. Xây dựng cơ chế, chính sách thí điểm triển khai Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại Quảng Ninh.
Trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh và kết quả đạt được trong quá trình phát triển của tỉnh Quảng Ninh, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, nhấn mạnh: Trên cơ sở mạng lưới đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái đã được hoàn thành, hiện đại hóa, phát huy hiệu quả, cần có biện pháp, lộ trình cụ thể kết nối nguồn lực các địa phương trong vùng để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, tốc độ hoàn thành các hạng mục có tính khớp nối, khắc phục các điểm nghẽn của “trục khuỷu giao thông” cản trở liên kết vùng, như: Cầu Lại Xuân; cầu Bến Rừng; cải tạo nâng cấp QL10 đoạn từ nút giao với QL18 (Quảng Ninh) đến cầu vượt Quán Toan (TP Hải Phòng)..., góp phần tăng cường kết nối nông thôn - thành thị, vùng thấp - vùng cao, công nghiệp - dịch vụ, du lịch, nội vùng, liên vùng bảo đảm đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thu hẹp chênh lệch vùng miền. Cùng với đó, hỗ trợ, tạo điều kiện cho Quảng Ninh tạo đột phá trong thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI thế hệ mới vào các KCN, KKT, tăng nhanh quy mô và tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế đêm, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng khoa học, công nghệ, tạo giá trị gia tăng lớn.
Về phát triển dịch vụ, thương mại, du lịch, các đại biểu khẳng định, vùng ĐBSH cần phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng với trọng tâm là phát triển thương mại, logistics, du lịch, tài chính, ngân hàng. Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng, cho rằng: Các địa phương trong vùng thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để nắm bắt đặc điểm, thị hiếu từng thị trường du lịch, từ đó có kế hoạch phát triển sản phẩm văn hóa - du lịch phù hợp. Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển thị trường du lịch, trong đó ưu tiên phát triển thị trường gần, duy trì thị trường truyền thống và hướng tới thị trường mở rộng. Nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa gắn với du lịch có tính đặc trưng của Vùng, lợi thế cạnh tranh tiến tới xây dựng thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa - du lịch vùng. Đa dạng hóa sản phẩm văn hóa - du lịch theo từng tiểu vùng và địa phương để tăng thời gian lưu trú của khách du lịch và mức chi tiêu.
Một trong những vấn đề cốt lõi, được một số đại biểu đề cập, đó là vùng ĐBSH cần chú trọng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn thông qua ứng dụng tiến bộ KHCN. Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, cho biết: Cần phải tăng cường đầu tư, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo. Bảo đảm chi cho KHCN và đổi mới sáng tạo từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KHCN. Cùng với đó, phát triển hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo nhằm phát triển, tích hợp hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo với các khu công nghệ cao, trường đại học, viện nghiên cứu. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm KHCN, triển khai các mô hình, giải pháp đổi mới sáng tạo, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa.
Trong định hướng phát triển mới, nhất là đối với phát triển công nghiệp, nhiều đại biểu đề xuất, cần phát triển công nghiệp vùng theo hướng hiện đại, công nghệ cao, ứng dụng nền tảng số, thân thiện với môi trường, ít phát thải khí nhà kính, có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh, tham gia sâu, toàn diện vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, trọng tâm phát triển công nghiệp hiện đại có lợi thế như công nghiệp điện tử, công nghệp công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ số.
Ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam, cho rằng: Để phát triển mạnh mẽ, đột phá vùng ĐBSH, cần chú trọng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát biểu kết luận, định hướng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, yêu cầu các bộ, ngành liên quan và 11 địa phương trong vùng ĐBSH khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ. Tập trung hoàn thiện thể chế, quy hoạch vùng và chính sách liên kết vùng. Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế biển, dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong đó, cần cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao; phát triển nông nghiệp hiệu quả cao, bền vững; phát triển các ngành dịch vụ, thương mại theo hướng hiện đại, đa dạng; phát triển mạnh kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh.
Bài: Mạnh Trường - Ảnh: Minh Hà, Hùng Sơn
Liên kết website
Ý kiến ()