Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 12:18 (GMT +7)
Ký ức hào hùng những ngày đầu tiếp quản Vùng mỏ
Thứ 3, 25/04/2023 | 08:31:28 [GMT +7] A A
Cụ Nguyễn Ngọc Đàm, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, là một trong số rất ít cán bộ có mặt trong những ngày đầu tiếp quản Vùng mỏ còn sống đến bây giờ. Hiện sức khỏe và trí nhớ của cụ đã sa sút nhiều do tuổi tác, nhưng ký ức về những ngày tháng lịch sử hào hùng của Vùng mỏ năm xưa thì dường như vẫn còn vẹn nguyên.
Cụ Nguyễn Ngọc Đàm, bí danh Lê Vân, được nhiều đồng chí, đồng đội gọi thân mật là bác Năm, hiện sinh sống ở phường Hồng Hà (TP Hạ Long). Cụ Đàm sinh năm 1922, tại Bắc Giang, theo anh trai là công nhân Nhà máy Kẽm Quảng Yên, vừa học vừa làm liên lạc cho anh trai và các đồng chí của anh. Những năm hoa niên ở Quảng Yên đã giúp chàng thanh niên Nguyễn Ngọc Đàm trưởng thành nhanh chóng, để sau này là một cán bộ cốt cán của Vùng mỏ.
Sau những năm trở về quê hương Bắc Giang hoạt động, mùa xuân năm 1946 cụ Đàm trở lại Vùng mỏ tham gia cách mạng. Cụ Đàm hạnh phúc vì là người trực tiếp tham gia vào sự kiện tiếp quản Vùng mỏ (25/4/1955), một dấu mốc quan trọng trong chặng đường lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói chung, Quảng Ninh nói riêng. Lúc đó cụ làm Quyền Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Đặc khu Hồng Gai, được giao là Phó ban Quân quản vào tiếp quản TX Hòn Gai.
Trước đó, ngay từ khi khu mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả còn nằm trong vùng tập kết 300 ngày, chủ trương của Đảng ta là phải đập tan âm mưu ép đồng bào ta di cư vào Nam và chủ mỏ tháo dỡ máy móc đem đi. Tháng 3/1955, chủ mỏ di chuyển 8 động cơ Nhà máy Điện Hòn Gai xuống Cẩm Phả để chuyển vào Nam; chúng ta đã tổ chức cho công nhân ở Nhà máy Cơ khí Cẩm Phả buộc giới chủ mỏ phải dừng việc tháo dỡ máy móc, ngăn chặn được chủ mỏ định chuyển 12 hòm máy và 1 cần cẩu xuống tàu.
Những ngày tháng 4/1955, cụ Đàm cùng Ban Quân quản đóng tại Đông Triều. Cụ từ Đông Triều về sân vận động Hòn Gai trên một chiếc ô tô rất cũ có từ thời Nga hoàng. Sáng 25/4, quân dân TX Hòn Gai tổ chức mít tinh trọng thể, ra mắt Ủy ban Quân chính và đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quân, dân Hồng Quảng. Cả Vùng mỏ rực rỡ cờ hoa, vỡ òa hạnh phúc đón bộ đội ta tiến về tiếp quản, chấm dứt hơn 70 năm thực dân Pháp cai trị. Kể từ đó những hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, ruộng vườn, đồi núi, sông biển đã do nhân dân làm chủ để bước vào thời kỳ mới, đấu tranh thống nhất nước nhà và dựng xây đất nước.
Sau tiếp quản Vùng mỏ, là Phó Bí thư Khu ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng, cụ Nguyễn Ngọc Đàm đã tập trung lãnh đạo khôi phục sản xuất than và các nhà máy cơ khí để sửa chữa máy móc, ô tô vận chuyển, máy xúc, máy gạt, xe goòng cho khai thác than. Nhờ đó việc sản xuất than từng bước được khôi phục hoạt động, nhất là ở khu vực Cẩm Phả.
Dù đã bước qua cái tuổi bách niên nhưng cụ Nguyễn Ngọc Đàm không thể nào quên không khí những ngày sau tiếp quản, nhất là tinh thần lao động hăng hái, vượt qua khó khăn gian khổ của công nhân mỏ. Từ trong ánh mắt mỗi người đều toát ra niềm tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo. Với ý thức tự giác cách mạng rất cao, họ là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của chính quyền và đó cũng là biểu hiện của truyền thống "Kỷ luật và Đồng tâm" của người Vùng mỏ.
Nhiều công trường, thiết bị máy móc ở Vùng mỏ cần phải khôi phục mới có thể hoạt động trở lại được. Ở Hà Tu, những ngày sau khi tiếp quản, chỉ có Công trường Bàng Danh A còn hoạt động với trên 400 công nhân lao động thủ công. Cán bộ, công nhân đã khắc phục mọi khó khăn, khôi phục lại tầng mỏ. Công nhân các công trường đã sôi nổi ra quân với khí thế hào hùng của những người làm chủ, đi vào sản xuất những tấn than đầu tiên, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ngày 15/5/1955, các xí nghiệp quốc doanh ngành Than ở khu Hồng Quảng ra đời. Đến tháng 9/1955, chế độ chủ thầu và sử dụng chuyên gia tư sản Pháp quản lý xí nghiệp than bị bãi bỏ, chuyển sang công nhân tự quản lý sản xuất. Đồng thời thành lập các ban quản trị các xí nghiệp để điều hành mọi hoạt động khai thác than.
Hưởng ứng phong trào công nhân tự quản lý sản xuất, tinh thần làm chủ trong công nhân đã được thể hiện ngày càng cao hơn. Chế độ quản lý dân chủ bước đầu đã gắn bó được trách nhiệm với quyền lợi của công nhân, tạo ra một khí thế lao động mới. Kế hoạch sản xuất hằng tháng, hằng năm đều hoàn thành vượt mức đề ra. Công nhân mỏ Cẩm Phả đã khôi phục đường trục số 2 Công trường Đèo Nai, đường trục lớn nhất Cẩm Phả lúc đó, chỉ trong 20 ngày, sớm hơn 160 ngày so với dự kiến. Đường trục đã tiết kiệm 1.170 nhân công và hơn 832 vạn đồng tiền nguyên vật liệu.
Công nhân Xí nghiệp Bến Cửa Ông (nay là Công ty Tuyển than Cửa Ông) đã nhanh chóng sửa chữa, khôi phục hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng 1 máy sàng than trước thời hạn dự định. Việc này đã tiết kiệm 141 ngày công và 830.000 đồng tiền vật liệu. Đồng thời tuyến đường sắt vận chuyển than Cửa Ông - Cẩm Phả được khôi phục. Đường trục số 2 Đèo Nai và Nhà sàng Cửa Ông đi vào hoạt động đã tăng sản lượng than đến 3.400 tấn/ngày, gấp 1,5 lần so với ngày đầu tiếp quản. Đây là thành tích nổi bật nhất trong những ngày đầu tiếp quản, là dấu son tô đậm thêm trang sử vẻ vang, kiên cường, bất khuất của công nhân mỏ, những người luôn tiên phong trong mọi lĩnh vực, vươn lên làm chủ cuộc sống, làm chủ khoa học kỹ thuật.
Năm 1956, sau 1 năm tiếp quản, việc khôi phục sản xuất vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của các mỏ. Vùng mỏ đã khôi phục sửa chữa tuyến đường sắt Hồng Gai - Hà Tu đưa vào sử dụng. Xí nghiệp quốc doanh Than Hồng Gai (tiền thân của TKV ngày nay) đã đưa lực lượng xung phong đi xẻ núi làm đường tàu. Nhờ có những tuyến đường sắt đó, việc vận chuyển than thuận lợi hơn. Công tác quản lý sản xuất, quản lý kinh tế ngày một đi vào nền nếp. Quyền làm chủ của công nhân mỏ được phát huy, năng suất và hiệu quả lao động nâng lên. Đời sống của công nhân mỏ ngày càng được cải thiện.
Cùng với đó, Nhà nước đã đầu tư cho ngành Than nhiều phương tiện, thiết bị, máy móc: Máy xúc, máy khoan, xe ô tô và một số công cụ khác để bước đầu thực hiện cơ giới hóa dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tổ chức quản lý của cán bộ lúc đó chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì thế, để cho cán bộ có thể làm chủ được máy móc, phương tiện và công nghệ hiện đại, Vùng mỏ đã tổ chức hàng loạt lớp tập huấn, bổ túc văn hóa ngoài giờ, các lớp học ngắn ngày, vừa học vừa làm, các lớp trung cấp...
Truyền thống của người thợ mỏ không chỉ được phát huy trong sản xuất, mà cả trong chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và cả những năm hòa bình, hội nhập quốc tế sâu rộng như bây giờ. Ngọn lửa than, ngọn lửa nhiệt tình cách mạng mà thế hệ cụ Đàm đã gây dựng đang được chuyển trao trọn vẹn cho thế hệ hôm nay. Trang sử thi hào hùng của Vùng mỏ mà thế hệ những người như cụ Nguyễn Ngọc Đàm đã viết lên, đã kể lại, đã và đang được thế hệ sau viết tiếp.
Phạm Học
Liên kết website
Ý kiến ()