Tất cả chuyên mục

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nhà thơ Trần Đăng Khoa có nhiều bài thơ hay về Quảng Ninh, nhiều kỷ niệm với các văn nghệ sĩ Vùng mỏ... Nhân dịp xuân mới, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã có cuộc trò chuyện với PV Báo Quảng Ninh...
![]() |
Nhà thơ Trần Đăng Khoa và tác giả bài viết. |
- Thưa Nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi được biết, ông quê ở Nam Sách (Hải Dương) nhưng ông lại có nhiều kỷ niệm với Đất mỏ?
+ Gia đình tôi một nửa ở Quảng Ninh. Và như thế, những vui buồn của tôi có nhiều liên quan với Quảng Ninh. Chỉ cần nghe tin bão có thể vào Quảng Ninh là tôi đã điện ngay cho các thành viên gia đình tôi xem có vấn đề gì cần phải lo toan. Ông anh ruột tôi, nhà thơ Trần Nhuận Minh, ra Quảng Ninh từ năm 1962, khi ấy còn là khu mỏ Hồng Quảng. Em gái tôi sau này cũng ra Hồng Gai học cấp 3, rồi sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm thì về Cẩm Phả dạy phổ thông trung học. Hai con bà chị ruột tôi cũng ở Cẩm Phả và khá đông các cháu... Chính anh Minh là người mở đường cho tôi đến với văn chương qua các tác phẩm văn học mà anh cho tôi đọc. Anh Minh chơi thân với anh Lý Biên Cương, khi đó là phóng viên Báo Quảng Ninh. Anh Cương quê gốc ở Nam Sách, sau chuyển về Phả Lại. Lần đầu anh đến nhà tôi, tôi có ứng tác 4 câu thơ đùa tặng anh: “Anh đi xe lết cao cao / Dựng xe ngoài cửa, anh vào nhà em / Mắt anh đeo cặp kính đen / Xe anh cũng chẳng có đèn, có chuông”. Sau này có nhà báo viết là tôi làm thơ về nhà thơ Phạm Hổ. Không phải, Phạm Hổ tôi gọi là chú, coi như cha. Quê tôi dạo ấy gọi xe đạp là “xe lết”, tôi không hiểu vì sao. Vì thế, anh Cương về nhà tôi, đưa tôi ra Hồng Gai chơi từ năm 1968. Sau đó, hè năm 1969, anh Cương đưa tôi ra Quảng Ninh lần 2. Lần này hai anh em đi qua Đông Triều (tôi viết bài “Cầu Cầm”) ghé qua Mạo Khê thăm anh Minh, rồi về Uông Bí gặp các nhà thơ ở đây. Vui lắm! Rồi ra Hồng Gai, tôi có đến Báo Quảng Ninh chơi và đi nói chuyện thơ ở một số nơi. Tôi không nhớ lúc đó mình mới 11 tuổi đầu thì nói những gì, chỉ cảm nhận là các cô, các chú rất ưu ái, rộng lượng và yêu thương mình như cha mẹ yêu con. Sau đó, anh Nguyễn Sơn Hà (Nhà văn Nguyễn Sơn Hà công tác tại Mỏ Cọc Sáu những năm bảy mươi, tám mươi của thế kỷ trước, sau chuyển về quê ở Thanh Hoá, nay đã mất - PV) lại đưa về Cọc Sáu, Cẩm Phả (tôi viết bài “Lời của Than” ở đây), thành ra tôi viết trong chuyến đi này được khá nhiều, gom thành tập cùng vài chục bài khác, đã được tái bản đến 70-80 lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Riêng ở Cu Ba, bài “Cầu Cầm” còn được một hoạ sĩ vẽ thành tranh rất đẹp...
- Và hơn chục bài thơ viết về Quảng Ninh có phải là kết quả của những chuyến đi đó?
+ Đúng thế. Sau hai chuyến đi đáng nhớ đó, tôi còn qua lại năm 1970, năm 1971, khi đó anh Minh đã là cán bộ Hội VHNT Quảng Ninh. Tôi về và ở tập thể Hội tại Bãi Cháy. Tôi viết bài “Hạ Long”, năm 1971, có câu ca ngợi vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long “Hiện lên rực rỡ lúc trời nổi giông” là viết ở đây, trụ sở của Hội trên đồi cao Bãi Cháy nhìn xuống Vịnh Hạ Long...
- Nhà thơ còn nhớ bài thơ đầu tiên của mình đăng trên Báo Quảng Ninh?
+ Nhớ chứ! Đó là bài “Em về Hồng Gai” năm 1968. Năm đó tôi tròn 10 tuổi. Tôi nhớ bài này tôi viết ở nhà anh Cương, hôm ấy có bác Như Mai đến chơi. Nhà anh Cương ở gác 2 phố Thương Mại, trước cửa trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Ninh bây giờ. Tôi nhớ trong bài có câu: “Thị xã / Có chiếc cầu vào nhà máy / Xây cao trên đầu / Có sắc núi Bài Thơ / Ngả vào từng cốc nước / Hoa giâu gia / Nở trắng từng ô cửa sổ...”. Thoạt đầu tôi còn viết: “Có sắc núi Bài Thơ / Ngã vào từng cốc nước”. Bác Như Mai bảo tôi: “Chữ “ngã” không đẹp. Bác nói đúng. Chữ “ngã” rất trẻ con. Đúng là thơ trẻ con”. Tôi chữa thành “ngả”. Hoa giâu gia không biết bây giờ có còn không? Còn “Chiếc cầu vào nhà máy” là chiếc cầu vào nhà máy cơ khí Hòn Gai, từ cạnh sân vận động Hồng Gai, bom Mỹ phá sập rồi và TP Hạ Long sau này cũng không khôi phục lại. Bây giờ các bạn trẻ đọc câu thơ này, có khi lại nghĩ là lão Khoa già rồi đâm lẩn thẩn, cái cầu ấy làm gì có... (cười).
- Xin cảm ơn Nhà thơ về cuộc trò chuyện này!
Phạm Học (Thực hiện)
Ý kiến ()