Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 30/04/2024 03:47 (GMT +7)
Tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn: Cần tháo gỡ những bất cập
Thứ 3, 29/10/2013 | 05:28:56 [GMT +7] A A
Có thể thấy, thời gian qua, vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã phát huy được những hiệu quả tích cực. Qua đó, góp phần không nhỏ làm thay đổi diện mạo sản xuất khu vực nông nghiệp, nông thôn từ manh mún nhỏ lẻ sang đầu tư phát triển tập trung, quy mô lớn. Tuy nhiên, nhìn nhận trên thực tế trong thời gian triển khai vấn đề trên đã bộc lộ những bất cập.
Những hiệu quả tích cực
Xác định việc thực hiện chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chính trị quan trọng trong quá trình hoạt động, nên ngành Ngân hàng đã tổ chức triển khai nghiêm túc, kịp thời các quyết định, chỉ đạo của Trung ương, đồng thời đã bám sát chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, linh hoạt trong huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân, chủ trang trại, các doanh nghiệp vay vốn. Thực tế cho thấy, các chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay chủ yếu được thực hiện theo Nghị định 41/2010 của Chính phủ, các chương trình tín dụng chính sách thông qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội trên địa bàn. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Quảng Ninh, sau 3 năm triển khai Nghị định 41/2010, ngân hàng đã giải quyết cho 182.944 lượt khách hàng là hộ gia đình, cá nhân, hợp tác xã, chủ trang trại và doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp nông thôn vay vốn, với tổng doanh số cho vay là 19.035 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tính đến ngày 30-9 đạt 6.430 tỷ đồng. Trong đó vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn chủ yếu tập trung đối với lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Cụ thể, cho vay chi phí sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm đã có 114.456 lượt khách hàng vay vốn với dư nợ là 4.474 tỷ đồng, chiếm 69,9% tổng dư nợ; cho vay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã có 40.854 lượt khách hàng vay vốn với dư nợ là 254 tỷ đồng, chiếm 4% tổng dư nợ; cho vay phát triển ngành nghề nông thôn đã có 6.219 lượt khách hàng vay vốn với dư nợ là 312 tỷ đồng, chiếm 4,9 % tổng dư nợ. Đến nay, trên địa bàn có 31 chi nhánh tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đóng vai trò chủ lực trong hoạt động này vẫn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội Quảng Ninh, bởi mạng lưới cho vay rộng khắp đến các huyện, xã nên đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn vay của khách hàng. Hàng nghìn tỷ đồng đã được đầu tư đúng mục đích, đạt hiệu quả. Nói về hiệu quả của nguồn vốn, chị Lê Thị Bảy, thôn 10-10, xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn cho biết: “Trước đây gia đình tôi nghèo lắm, thời gian đó, gia đình cũng muốn phát triển nghề trồng cam truyền thống, đây vốn là đặc sản nổi tiếng của địa phương nhưng đến bữa ăn còn phải lo từng bữa chứ biết lấy đâu ra vài chục triệu đồng để đầu tư sản xuất. Được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương cùng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vân Đồn, gia đình tôi đã làm thủ tục vay 50 triệu đồng để đầu tư sản xuất, nhân rộng diện tích trồng cam. Bây giờ, trên 2ha cam là nguồn thu nhập chính, ổn định, nuôi sống cả gia đình”.
Mô hình trồng cam của gia đình chị Nguyễn Thị Bảy, thôn 10-10, xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn cho hiệu quả khá. |
Những bất cập cần tháo gỡ
Mặc dù đã mang lại những hiệu quả tích cực, tuy nhiên, vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vẫn có những bất cập cần tháo gỡ bởi ngoài việc thiếu hụt vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá, đầu ra thiếu ổn định thì việc quy định khắt khe về nhãn mác hàng hoá thiết bị sản xuất, phục vụ nông nghiệp hay áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay cũng gặp những trở ngại nhất định. Đây là nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng rất e ngại khi thẩm định, cho vay đối với các khoản vay phục vụ cho nông nghiệp nông thôn, hộ nông dân khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Cụ thể, khi hộ vay vốn phát sinh nợ quá hạn thì việc xử lý tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thu nợ khó thực hiện bởi nhà và đất ở nông thôn rất khó mua bán, chuyển nhượng, nhất là những trường hợp chỉ có giấy chứng nhận tạm thời hoặc các hộ sản xuất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đăng ký thế chấp được. Do đó, không đủ điều kiện vay vốn theo quy định. Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế thường có chi phí cao, khả năng sinh lời thấp, nhiều rủi ro khách quan do thiên tai, dịch bệnh... Cộng với đó những phương án sản xuất kinh doanh cũng chưa được thuyết phục nên ngân hàng cũng chưa có cơ sở mà mạnh dạn cho vay. Do đó, mức trích lập dự phòng rủi ro đối với những khoản vay không có tài sản thế chấp từ đó cũng tăng cao hơn, khả năng xử lý thu hồi nợ thường gặp khó khăn . Mặc dù theo Nghị định 41/2010 đã nâng hạn mức cho vay thông thường không cần tài sản thế chấp lên đến 50 triệu đồng đối với cá nhân, hộ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, 200 triệu đồng đối với hộ kinh doanh, sản xuất, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, 500 triệu đồng đối với hợp tác xã, chủ trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhưng nhiều khách hàng chưa đủ uy tín, thiếu phương án kinh doanh khả thi cùng với việc nâng hạn mức cho vay không cần tài sản thế chấp làm tăng đáng kể rủi ro cho hoạt động của các ngân hàng thương mại nên các ngân hàng dù rất muốn cũng không thể cho vay. Ngân hàng “ngại” cho vay tới hộ nông dân, còn người dân thì “ngại đi vay” vì cơ chế, thủ tục cho vay phức tạp. Đối với đối tượng sản xuất nông nghiệp nhưng lại phát triển tại khu vực phường, thị trấn… lại không thuộc đối tượng được vay. Nguồn vốn huy động được từ dân cư và từ nguồn vay tái cấp vốn chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, trong khi đó nhu cầu vay vốn đối tượng nông nghiệp nông thôn phần lớn là nhu cầu vốn trung và dài hạn, trong khi đó để có hiệu quả thì nguồn vốn phải được cho vay trong kỳ hạn dài. Nhu cầu về tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đang rất lớn. Các vướng mắc rào cản về tín dụng lĩnh vực này cần các cơ quan chức năng có những giải pháp tháo gỡ hiệu quả và kịp thời để người dân có thể hưởng lợi ích cao nhất từ chính sách hỗ trợ để đầu tư phát triển sản xuất có hiệu quả cao hơn.
Cao Quỳnh
Liên kết website
Ý kiến ()