Tất cả chuyên mục

Trần Tung, anh ruột Trần Quốc Tuấn, được phong tước Hưng Ninh vương năm 1251, tu tại gia từ năm 13 tuổi, pháp danh là Tuệ Trung Thượng sĩ, được vua Trần Nhân Tông tôn làm thầy. Vì có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đặc biệt là việc chỉ huy trận phục kích tại chợ Đông Hồ (Đông Triều) ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tí (1288) đã góp công quan trọng vào chiến thắng Bạch Đằng, ông được vua Trần phong chức Tiết độ sứ Thái Bình năm 1289 và sau đó lấy đất Tĩnh Bang phong cho ông…
![]() |
Bản đồ Hải Dương thời thuộc Pháp, năm 1888. |
Vậy Tĩnh Bang là ở đâu?
Có một thời gian dài người ta cho rằng Tĩnh Bang là Yên Bang; rồi lại do nhầm lẫn Trần Tung với Trần Quốc Tảng (cháu gọi Trần Tung là bác ruột) là một người; rồi lại căn cứ vào chuyện dân gian rằng Trần Quốc Tảng bị đày xuống Yên Bang (mà Yên Bang cũng bị nhầm lẫn nốt là Cửa Ông bây giờ), nên có tài liệu ghi Tĩnh Bang là… Cửa Ông.
Nói đây là sự nhầm lẫn là bởi không có chuyện Trần Quốc Tảng bị đày xuống Yên Bang và Yên Bang cũng chưa bao giờ là Cửa Ông cả. Theo bản đồ châu Tiên Yên lập năm 1888, thì đến năm 1888, vùng Cẩm Phả chưa có tên Cửa Ông. Và theo điển lễ của triều Nguyễn thì “Ông” trong “Cửa Ông” là chỉ trạm Cửa khẩu có cá Ông Voi chết (chứ không phải là Đức Ông Trần Quốc Tảng như nhiều người vẫn nghĩ).
Bác lại quan điểm Yên Bang là Cửa Ông, một số nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử đã đưa ra 2 địa chỉ, một là Yên Bang ở huyện Vĩnh Bảo, hai là ở chùa Linh Sơn, làng Minh Đức, huyện Thủy Nguyên. Cả hai đều thuộc Hải Phòng và không nêu căn cứ vào đâu…
Theo tôi, Tĩnh Bang không phải là Cửa Ông thì hẳn rồi, nhưng cũng không phải ở Hải Phòng như hai địa chỉ vừa nêu trên. Tôi nói vậy là dựa trên một số căn cứ sau đây. Căn cứ thứ nhất là bài Tựa Hành trạng Tuệ Trung Thượng sĩ trong sách Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do chính vua Trần Nhân Tông viết lúc sinh thời (đây là một tài liệu đáng tin cậy). Trong đó vua Trần ghi: Sau khi nhận đất được phong, Tuệ Trung đã “đổi tên ấp Tĩnh Bang thành hương Vạn Niên”. Nhưng tiếc là không ghi Vạn Niên ở đâu. Căn cứ thứ 2 là tấm bản đồ tỉnh Hải Dương năm 1888 do người Pháp lập, có ghi đủ tên các làng xã, trong đó, sát phía đông huyện lị Thanh Lâm (Nam Sách) là hương Vạn Niên. Theo sách Tên các làng xã Việt Nam từ thế kỉ XIX trở về trước, ngoài Vạn Niên ở Nam Sách thì không có làng thứ 2 nào mang tên Vạn Niên cả. Làng này có từ thời thượng cổ đến năm 1945, hiện vẫn còn ngôi đình cổ rất nổi tiếng mà bảng chỉ dẫn thăm đình, cạnh đường quốc lộ Sao Đỏ đi Tiền Trung. Căn cứ thứ 3, theo Đại Việt sử kí toàn thư, bố phòng của quân đội nhà Trần thời đánh giặc Nguyên là: Phía nam Thăng Long giao cho Trần Quang Khải, phía tây bắc giao cho Trần Nhật Duật, phía đông bắc, giao cho Trần Khánh Dư. Còn mặt trận trung tâm và kinh thành Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn tự đảm nhận. Anh trai Trần Quốc Tuấn (là Trần Tung) và các con ông đóng quân ở các vùng bây giờ là các huyện thuộc Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang… Từ ba căn cứ trên, “ráp mối” lại, có thể thấy việc Trần Tung có đất phong ở Nam Sách (cũng như việc Trần Quốc Tảng đóng quân ở Vườn vải Trắc Châu, Thanh Lâm, (Nam Sách) mà có lần tôi đã đề cập) là có cơ sở.
Tôi nêu vấn đề này, rất mong được các nhà có kiến văn cao minh, hoặc các vị có tư liệu tin cậy hơn, chỉ giáo cho.
Trần Nhuận Minh
Ý kiến (0)