Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 30/04/2024 02:30 (GMT +7)
Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh tranh luận một số quy định Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Thứ 2, 28/05/2018 | 19:41:37 [GMT +7] A A
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV, sáng 28/5, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016.
Tham gia tại phiên thảo luận, đại biểu (ĐB) Trần Văn Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đã có phát biểu thảo luận về vấn đề có liên quan.
Quanh cảnh phiên họp. |
ĐB Trần Văn Minh khẳng định công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016 đã đạt được nhiều kết quả. Cụ thể là đã cổ phần hóa được 571 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Trong đó, giai đoạn 2011-2015 là 508 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, đạt 98,1% kế hoạch đặt ra. Việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đăng ký giao dịch, niêm yết của các doanh nghiệp cổ phần hóa trên thị trường chứng khoán đã tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Do vậy, ĐB cơ bản nhất trí với báo cáo giám sát về các tồn tại, hạn chế và các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý Quỹ hỗ trợ, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp, đồng thời trao đổi thêm một số nội dung:
Một là, tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ ở các công ty cổ phần còn cao, sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược còn rất hạn chế. Tuy tỷ lệ số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa đạt cao, nhưng theo số liệu bán cổ phần lần đầu của 426 doanh nghiệp, trong tổng số vốn điều lệ nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ đến 81,1%, có đến 70% doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 90%. Kết quả đó chưa đạt với yêu cầu của việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Khi tỷ lệ sở hữu của cổ đông tăng họ mới có nhiều động cơ cải thiện kết quả hoạt động của doanh nghiệp và cũng chỉ khi đó họ mới có thực quyền trong việc tham gia cải cách và đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp. Trong số chưa đầy 20% vốn điều lệ sau bán cổ phần lần đầu do các thành phần kinh tế ngoài nhà nước nắm giữ, các nhà đầu tư chiến lược cũng chỉ chiếm 7,3%.
ĐB Trần Văn Minh cho rằng, việc tăng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư chiến lược là cực kỳ quan trọng, bởi họ không phải chỉ mang lại nguồn tài chính mà thực sự họ mới là người đem lại cho doanh nghiệp về công nghệ và kỹ năng quản trị hiện đại về thị trường mới và mạng lưới phân phối mạnh. Qua đó, mới đóng góp tích cực được cho ngân sách nhà nước. Thực tế tình hình cho thấy thời gian qua phần lớn tỷ lệ bán cho các nhà đầu tư chiến lược được phê duyệt thường nhỏ, làm giảm sự quan tâm của các nhà đầu tư chiến lược. Tỷ lệ chào bán cho bên ngoài dưới mức chi phối cũng làm giảm sự thu hút với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư muốn dành quyền chi phối doanh nghiệp sau có cổ phần hóa.
Do vậy, cần tiếp tục rà soát, tách bạch giữa những lĩnh vực mà nhà nước cần nắm quyền chi phối với những lĩnh vực cần phải huy động vốn từ xã hội. Duy trì tỷ lệ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp ở mức hợp lý nhằm thu hút nhà đầu tư tích cực tham gia vào quá trình cổ phần hóa. Bản thân doanh nghiệp nhà nước còn kém hấp dẫn do nhiều khó khăn nội tại. Bên cạnh đó, việc xác định giá trị doanh nghiệp và bán cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp, chưa phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp, cùng với việc thiếu công khai, minh bạch trong tiến trình cổ phần hóa cũng như thủ tục cổ phần hóa còn phức tạp, thời gian kéo dài và nhiều yêu cầu khó khả thi. Đó là những nguyên nhân khiến cho các nhà đầu tư e ngại vì thế cần phải có những giải pháp khắc phục có hiệu quả các tồn tại này.
Đại biểu Trần Văn Minh tham gia thảo luận tại hội trường. |
Từ các dẫn chứng trên, ĐB Trần Văn Minh đề nghị: Cần quy định tiêu chí rõ ràng, minh bạch trong lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, bao gồm cả đối với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài; cần đảm bảo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và trong nước. Cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu tỷ lệ cổ phần giống như nhà đầu tư trong nước, cho phép họ sở hữu chi phối một số ngành, lĩnh vực không thiết yếu. Bên cạnh việc quan tâm thu hút các nhà đầu tư chiến lược cũng cần có các quy định về chế tài khi các nhà đầu tư này không thực hiện đúng cam kết, gây thiệt hại cho nhà nước, doanh nghiệp được cổ phần hóa và người lao động.
Hai là, với nhiều lý do, kể cả về quy trình thực hiện, về năng lực trách nhiệm của tổ chức tư vấn và không loại trừ cả động cơ trục lợi mà việc định giá doanh nghiệp cổ phần hóa thiếu chính xác. Việc định giá có nơi chưa hợp lý, giá trị doanh nghiệp cổ phần thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế, dẫn đến khi bán đấu giá thì giá cổ phiếu lại cao hơn gấp nhiều lần. Bởi trên thực tế kiểm toán ở 17 doanh nghiệp trong giai đoạn 2012-2016 cũng đã kiến nghị điều chỉnh tăng giá trị thực tế phần vốn nhà nước tới hơn 22.300 tỷ đồng.
Mặt khác, ĐB Trần Văn Minh cũng cho rằng, việc quản lý đất đai khi cổ phần hóa còn nhiều thiếu sót, không tính hoặc tính thiếu giá trị quyền sử dụng đất khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa, xác định giá trị quyền sử dụng đất khi thay đổi quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa đối với những vị trí đất đắc địa có giá trị thường cao, còn bất cập, thiếu minh bạch, tạo cơ hội cho một số tổ chức, cá nhân có liên quan trục lợi, tham nhũng gây thất thoát vốn, tài sản của nhà nước. Nhiều cổ đông tham gia mua cổ phiếu doanh nghiệp trái ngành, thâu tóm các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, bên cạnh đó cũng không loại trừ động cơ họ chờ cơ hội để được hưởng lợi lớn từ những mảnh đất vàng của các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Do vậy, nghiên cứu các phương pháp định giá tài sản tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm vốn, tài sản của nhà nước và giá trị doanh nghiệp được định giá đầy đủ, hợp lý, công khai, minh bạch; xây dựng giá cổ phần xác định theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá công khai minh bạch; việc định giá doanh nghiệp cần được tiến hành độc lập với các đơn vị có nhiều kinh nghiệm quốc tế và trong nước, đồng thời việc định giá tài sản cần có sự giám sát chéo giữa các cơ quan, đảm bảo tính độc lập và minh bạch, cần có quy định chế tài cụ thể đối với trường hợp tổ chức tư vấn vi phạm các quy định của pháp luật. Đặc biệt là cần nghiêm cấm và xử lý nghiêm minh các trường hợp xác định giá trị doanh nghiệp không đúng quy định của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát tài sản, vốn của nhà nước; tăng cường hơn nữa việc quản lý đất đai của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa theo quy định của pháp luật về đất đai.
ĐB Trần Văn Minh cũng bày tỏ thêm, cuộc giám sát chuyên đề này đã được thực hiện công phu và khoa học; báo cáo kết quả đã toàn diện, đầy đủ các nội dung. Tuy nhiên, khi nghiên cứu báo cáo, kể cả báo cáo đầy đủ thì thấy rằng phần trách nhiệm dung lượng còn khá ngắn, chưa đầy 1,5 trang trên 52 trang báo cáo. Cùng với đó, các nội dung còn khá chung chung, ít chỉ ra các địa chỉ cụ thể chịu trách nhiệm đối với từng lĩnh vực hoạt động có nhiều tồn tại vi phạm. ĐB nhấn mạnh: Mục tiêu quan trọng của giám sát là xác định trách nhiệm của các chủ thể có liên quan để tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong thi hành công vụ. Vẫn biết đây là việc rất khó, nhưng cũng rất cần được quan tâm đầu tư thực hiện.
Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đỗ Thị Lan phát biểu tranh luận tại hội trường. Ảnh: Quang Khánh (Báo Đại biểu Nhân dân) |
Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đỗ Thị Lan tranh luận về một số quy định trong Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Cũng tại phiên thảo luận, ĐB Đỗ Thị Lan, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh đã tranh luận về ý kiến của ĐB Hoàng Văn Cường (TP Hà Nội) cho rằng trong dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt vẫn đề xuất một chính sách miễn tiền sử dụng đất cho các dự án có mục đích sử dụng đất từ 10 đến 30 năm, đây là chính sách đi ngược lại cung cầu về đất đai. Từ đó ĐB Hoàng Văn Cường lo ngại chính sách này không thu hút tốt các nhà đầu tư cạnh tranh và làm thất bại quá trình cạnh tranh lành mạnh của các đặc khu.
Không đồng tình với quan điểm này, ĐB Đỗ Thị Lan cho rằng, Dự thảo Luật có quy định 2 trường hợp được miễn tiền thuế đất đến 30 năm. Thứ nhất là những dự án thuộc danh mục cần thu hút đầu tư theo hình thức xã hội hóa thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Đây là những lĩnh vực nằm trong danh mục cần thu hút đầu tư vừa giải quyết mục tiêu về xã hội, nhưng cũng đồng thời là những dự án mang lại hiệu quả về kinh tế.
Thứ hai là những dự án miễn thuế đất tối đa là 30 năm nhưng không quá nửa thời gian đầu tư dự án của nhà đầu tư chiến lược, nhưng phải đảm bảo các điều kiện cam kết như Dự thảo Luật đã nêu. Ví dự như phải đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh thuộc ngành, nghề ưu tiên phát triển đặc khu; có quy mô sản xuất - kinh doanh lớn; phải có nguồn vốn đầu tư tương ứng một số dự án được xem xét thuộc lĩnh vực ưu tiên từ 6.000-45.000 tỷ đồng là mức tối thiểu và cần phải cam kết giải ngân trong thời gian quy định là từ 3-8 năm, đồng thời phải thực hiện cam kết chuyển giao công nghệ tiên tiến và gắn bó lâu dài với đặc khu.
Trên cơ sở lập luận khoa học, ĐB Đỗ Thị Lan khẳng định: Dự thảo Luật đã nghiên cứu, xem xét đầy đủ đến hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng đất, tài sản của nhà nước đối với các dự án đầu tư vào đặc khu nên mới xây dựng chính sách miễn tiền sử dụng đất cho các dự án có mục đích sử dụng đất từ 10 đến 30 năm. ĐB cũng khẳng định, so với các quy định hiện hành đang ưu đãi đối với các khu công nghiệp thì trong Dự thảo Luật đã thu hẹp hơn, đồng thời đã xem xét toàn diện tính hiệu quả của nó.
Quang Minh - Quang Khánh (Báo Đại biểu Nhân dân)
Liên kết website
Ý kiến ()