Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 22/11/2024 14:26 (GMT +7)
Chất vấn tại hội trường: Tranh luận, làm rõ, đi đến cùng vấn đề
Thứ 5, 08/12/2022 | 14:16:14 [GMT +7] A A
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 12, HĐND tỉnh khoá XIV, chiều 8/12, diễn ra phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường. Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, điều hành phiên chất vấn.
Tại phiên chất vấn, các đại biểu đăng ký chất vấn với 14 nhóm nội dung, liên quan đến 10 sở, ngành của tỉnh liên quan đến các lĩnh vực: Sử dụng đất, đá thải mỏ làm vật liệt san lấp gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn; Giải pháp thu hút nguồn vốn FDI, thực hiện tốt chủ đề công tác năm 2023; Cải thiện nước sinh hoạt cho người dân nông thôn; Chuyển đổi số tác động đến đời sống nhân dân; Nâng cao hiệu quả phục hồi, phát triển du lịch, dịch vụ; Đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao và tệ nạn xã hội…
Căn cứ vào các nội dung đại biểu đăng ký và vấn đề cử tri quan tâm, phiên chất vấn sẽ tập trung vào 4 nhóm vấn đề chính gồm: Thu hút đầu tư, nhất là thu hút nguồn vốn FDI; sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp đảm bảo an toàn, vệ sinh môi trường; cải thiện nước sinh hoạt cho người dân nông thôn; Chuyển đổi số.
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký nhấn mạnh, phiên chất vấn sẽ trên tinh thần hỏi nhanh, gọn - trả lời thẳng, đi thẳng vào vấn đề. Đại biểu dành thời gian để có nhiều câu hỏi và câu trả lời, không ngại tranh luận để làm rõ, đi đến cùng vấn đề.
* GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ THU HÚT HIỆU QUẢ VỐN FDI?
Chất vấn đồng chí Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, đại biểu Nguyễn Thị Bích Liên, Tổ đại biểu TX Đông Triều, cho biết, năm 2022, thu hút FDI vào tỉnh Quảng Ninh không đạt mục tiêu đề ra theo Nghị quyết 08-NQ/TU của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 68/NQ-HĐND ngày 9/12/2021 của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022. Đại biểu đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư cho biết nguyên nhân dẫn đến kết quả thu hút FDI không đạt mục tiêu đề ra và Sở sẽ tham mưu những giải pháp nào cho UBND tỉnh để chỉ đạo thực hiện tốt chủ đề công tác năm "Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư"?
Đại biểu Lưu Văn Thường, Tổ đại biểu huyện Hải Hà - Đầm Hà, chất vấn: Trong quá trình theo dõi, giám sát hoạt động kinh doanh các dự án FDI trên địa bàn tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã có đánh giá về hiệu quả thu hút FDI toàn tỉnh ra sao? Đại biểu cũng đề nghị đồng chí Giám đốc Sở chỉ rõ những khó khăn vướng mắc chung mà các dự án FDI hay gặp khi đầu tư kinh doanh tại tỉnh, nhất là trong năm 2022.
Đại biểu Nguyễn Hồng Dương, Tổ đại biểu TP Hạ Long, chất vấn Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư: Chủ đề công tác năm 2023 về thực hiện nâng cao chất lượng thu hút đầu tư, vậy lĩnh vực nào sẽ tập trung vào thu hút đầu tư và các giải pháp cụ thể trong việc triển khai, đặc biệt là đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn?
Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nguyễn Mạnh Cường đề xuất: "Cần phải đổi mới mạnh mẽ công tác xúc tiến đầu tư cả về nội dung và hình thức; đồng thời nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước, tăng tính liên kết giữa cộng đồng doanh nghiệp FDI và DDI..."
Trả lời chất vấn về việc năm 2022, thu hút FDI vào tỉnh Quảng Ninh không đạt mục tiêu đề ra theo Nghị quyết 08-NQ/TU của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 68/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của HĐND tỉnh, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nguyễn Mạnh Cường thông tin nhanh tới các đại biểu: Tính đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện đang có 153 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 10,33 tỷ USD của các nhà đầu tư tới từ 19 quốc gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại Quảng Ninh. Trong đó có 91 dự án tại địa bàn các KCN, KKT (chiếm 59,5%) với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 4,36 tỷ USD (bao gồm cả dự án đầu tư hạ tầng KCN), chiếm 42,2%; 62 dự án ngoài KCN, KKT (chiếm 40,5%) với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 5,97 tỷ USD (chiếm 57,8%), Lũy kế vốn đầu tư thực hiện ước đạt 6,42 tỷ USD, đạt trên 62% tổng vốn đầu tư đăng ký. Các dự án đầu tư tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp, văn hóa, xã hội, du lịch, hạ tầng kỹ thuật, nông nghiệp, thương mại dịch vụ.
Trên thực tế việc thu hút nguồn FDI năm 2022 không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, về nguyên nhân khách quan là do tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19; áp lực của lạm phát đè nặng lên nền kinh tế châu Âu và Mỹ; ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga - Ukraine; việc cắt giảm sản lượng xăng dầu thế giới; giá nguyên liệu đầu vào tăng cao; chính sách chống dịch bệnh “Zero Covid” của Trung Quốc; chuỗi cung ứng nguyên nhiên liệu bị đứt gãy; hoạt động xuất, nhập khẩu, thông quan hàng hóa, cước phí vận tải biên tăng cao... đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Đối mặt với thách thức suy giảm dòng vốn FDI toàn cầu, các công ty đa quốc gia và nhiều doanh nghiệp FDI có xu hướng hạn chế mở rộng sản xuất kinh doanh trong đại dịch, tìm cách đa dạng hóa nguồn cung ứng, dịch chuyển dòng vốn đầu tư về chính quốc.
Cùng với đó là chính sách của Việt Nam về cách ly Covid-19 hoặc hạn chế mở cửa của các nước trong khi dịch bệnh diễn biến phức tạp chưa được kiểm soát cũng là nguyên nhân hạn chế nhà đầu tư đến từ các nước tìm hiểu và đầu tư tại Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng đã hạn chế các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc, Hồng Kông (đến ngày 15/3/2022 Bộ Y tế ban hành Công văn số 1265/BYT-DP về việc phòng, chống dịch Covid-19 đối với người nhập cảnh. Theo đó khách quốc tế nhập cảnh Việt Nam không cần cách ly, không cần xét nghiệm lại; Nhật Bản bắt đầu nới lỏng từ 29/4/2022, đến hiện tại Trung Quốc vẫn đang thực hiện chính sách Zero Covid).
Bên cạnh đó, công tác thu hút đầu tư trong đó có FDI vẫn còn những tồn tại, hạn chế, yếu kém chủ quan. Trong đó đáng chú ý nhất là việc công tác xúc tiến đầu tư thiếu tính đồng bộ và tính chiến lược; các hình thức xúc tiến đầu tư chưa đa dạng, lực lượng xúc tiến đầu tư mỏng, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Số lượng dự án FDI đầu tư vào tỉnh có gia tăng nhưng số dự án có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ phụ trợ còn ít, tiến độ triển khai thực hiện một số dự án còn chậm so với đăng ký đầu tư.
Công tác hoàn thiện mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật của các KCN, KKT còn chậm. Năng lực của doanh nghiệp trong nước còn yếu; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm số lượng lớn, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bất động sản, dịch vụ, thương mại… trong khi đó tỷ trọng đầu tư trong các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn còn thấp, tính bền vững, tính liên kết và tính lan tỏa còn hạn chế. Thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Về giải pháp trong thời gian tới, Sở Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh đến vấn đề tiên quyết là phải tạo dựng được quỹ đất sạch và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hoàn thiện, hiện đại cho các KCN, KKT. Cùng với đó là việc đổi mới cả nội dung và hình thức công tác xúc tiến đầu tư, cả tại chỗ và đầu tư mới, ở cả cấp địa phương và cấp doanh nghiệp, tránh tình trạng tỉnh, đặc biệt là các cấp lãnh đạo tỉnh quyết liệt chỉ đạo, lãnh đạo nhưng tự thân các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN lại không nhiệt tình… Tỉnh cũng cần tranh thủ sự ủng hộ, trợ giúp của các bộ, ngành Trung ương trong kết nối, giới thiệu; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thương mại ở nước ngoài.
Làm rõ thêm phần trả lời của đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Sở KH&ĐT, về công tác thu hút đầu tư FDI, đồng chí Hoàng Trung Kiên, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh, giải trình như sau: Để thu hút các dự án đầu tư, ngay từ đầu năm 2022, BQL Khu kinh tế tỉnh cùng với chủ đầu tư hạ tầng các KCN đã xác định được rõ 20 dự án đầu tư FDI và đã thực hiện ký thỏa thuận nguyên tắc. Ban cũng đã làm việc với các chủ đầu tư để yêu cầu chứng minh thực hiện các dự án này bằng cam kết.
Đặc biệt trong 3 năm gần đây, công tác đầu tư hạ tầng ở các KCN, KKT được quan tâm đầu tư rất lớn. Hiện nay tại các KCN, KKT đã có trên 500ha mặt bằng sạch, đủ điều kiện để sẵn sàng thu hút nhà đầu tư. Nhưng do tác động của nền kinh tế nên một số nhà đầu tư lớn của nước ngoài đã có thư xin lùi thời hạn đầu tư lại. Bên cạnh đó, với quan điểm không đánh đổi kinh tế lấy môi trường nên trong năm 2022, có 4 dự án với tổng vốn đầu tư trên 150 triệu đô la BQL Khu kinh tế tỉnh cũng chưa xem xét đầu tư và yêu cầu nhà đầu tư giải trình thêm.
Tuy nhiên, bên cạnh những nguyên nhân chủ quan, khách quan thì kết quả thu hút đầu tư năm 2022 vẫn thấp có một phần trách nhiệm của BQL Khu kinh tế tỉnh khi đơn vị chưa linh hoạt, hiệu quả trong công tác thu hút đầu tư. Do đó, trong thời gian tới, Ban sẽ tham mưu tỉnh để đưa ra những giải pháp quyết liệt hơn như nhóm giải pháp quy trách nhiệm của chủ đầu tư hạ tầng cùng với trách nhiệm của các cơ quan liên quan để làm sao thu hút đầu tư vào các địa bàn trọng điểm và vào các lĩnh vực tỉnh ưu tiên thu hút đầu tư như chế biến, chế tạo. Đồng thời, giao chỉ tiêu thu hút đầu tư cho các chủ đầu tư hạ tầng.
Đồng chí Vũ Thị Kim Chi, Phó Trưởng Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh, trả lời nội dung liên quan đến vấn đề thu hút đầu tư FDI
Thời gian qua tỉnh Quảng Ninh đã có những chỉ đạo kịp thời về công tác xúc tiến đầu tư ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50 về thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong năm 2022, công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh được tỉnh đặc biệt quan tâm. Các hội nghị xúc tiến đầu tư cũng được tổ chức, đặc biệt là Hội nghị APEC. Tại Hội nghị này cách làm của Quảng Ninh cũng đã có sự đổi mới đó là lãnh đạo tỉnh đã gặp mặt bên lề hội nghị APEC các tập đoàn mới, sau hội nghị này tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện được sự bám sát. Đến nay đã có sự phản hồi tốt đơn cử như đoàn Singapore cử đầu mối phối hợp với tỉnh Quảng Ninh trong Hội nghị xúc tiến Singapore năm 2023 tại Quảng Ninh. Ngoài ra, các hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ cũng được quan tâm.
Như vậy có thể thấy công tác xúc tiến đầu tư đã có những hiệu quả và đổi mới. Tuy nhiên, về góc độ cơ quan tham mưu xúc tiến đầu tư của tỉnh chúng tôi nhận thấy vẫn còn một số tồn tại. Đó là chưa đổi mới và có sự tham mưu sáng tạo, có cách tiếp cận mới để tham mưu cho tỉnh một giải pháp tổng thể.
Bên cạnh những khó khăn khách quan, thì các nhà đầu tư, tập đoàn mới rất quan tâm đó là vấn đề lao động, đặc biệt lao động chất lượng cao chưa có nhiều; chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN đầu tư còn theo tiến độ, theo tâm lý; vấn đề điện, nước…
Tôi đề xuất một số giải pháp: Tham mưu tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư theo hướng tiếp cận địa phương; tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư Singapore; tham gia một số sự kiện xúc tiến đầu tư nhân sự kiện thiết lập ngoại giao với Nhật Bản thông qua kênh ngoại giao; tham mưu tỉnh xây dựng Bộ tài liệu xúc tiến đầu tư chuyên sâu; xúc tiến đầu tư tại chỗ các nhà đầu tư lớn của Hàn Quốc; chủ động hơn trong xúc tiến đầu tư...
Làm rõ thêm trách nhiệm về thu hút đầu tư FDI không đạt như kỳ vọng, đồng chí Bùi Văn Khắng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cũng thẳng thắn thừa nhận, mục tiêu thu hút đầu tư đạt 1,5 tỷ USD trong năm 2022 được UBND tỉnh giao chỉ tiêu trực tiếp cho BQL Khu Kinh tế và Ban Xúc tiến hỗ trợ đầu tư. Hai cơ quan cũng đã nỗ lực để làm tốt công tác thu hút đầu tư thông qua việc tiếp cận các nhà đầu tư tiềm năng, tuy nhiên, cũng phải xem xét thêm nguyên nhân đến từ phía chính quyền các địa phương có dự án đó là GPMB còn chậm, công tác san lấp mặt bằng cũng chưa thực sự được đẩy mạnh.
Bên cạnh đó, dự kiến nguồn năng lượng cung cấp cho các dự án rất lớn, trong khi đó thực tế tại Quảng Ninh cũng chưa đáp ứng được ngay nhu cầu của nhà đầu tư, nguyên nhân do xác định năng lượng điện sử dụng cho các KCN không sát. Ngoài ra còn vấn đề về nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là sau 2 năm đại dịch Covid-19, nguồn nhân lực cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
Về phía trách nhiệm trực tiếp của BQL Khu Kinh tế và Ban Xúc tiến hỗ trợ đầu tư, cũng phải nhìn nhận rằng, phương thức xúc tiến đầu tư truyền thống không mang lại hiệu quả cao. Do đó, sang năm tới, hai đơn vị này cần phải đổi mới mạnh mẽ công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, lựa chọn địa chỉ, lựa chọn nhà đầu tư rõ ràng, đồng thời thiết lập cam kết lộ trình thực hiện với các nhà đầu tư để đảm bảo mục tiêu tỉnh đề ra.
Qua trả lời của các sở, ngành, đại biểu Nguyễn Hồng Dương, Tổ đại biểu TP Hạ Long, đề nghị làm rõ vai trò Ban Xúc tiến và hỗ trợ đầu tư khi tham gia vào thu hút đầu tư vào các KCN, KKT. Liên quan đến đánh giá cơ chế hỗ trợ của các nhà đầu tư vào KCN, KKT, qua đánh giá cho thấy các cơ chế chưa đủ mạnh. Các đơn vị tham mưu cần có giải pháp như thế nào để đảm bảo cơ chế hỗ trợ cho nhà đầu tư để thu hút các nhà đầu tư và hỗ trợ tối đa cho nhà đầu tư?
Đại biểu Nguyễn Việt Dũng, Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô: Qua nghiên cứu, nhiều doanh nghiệp FDI tại Quảng Ninh có sử dụng diện tích đất lớn, tiêu tốn nhiên liệu, năng lượng và nguồn nước cho sản xuất; các ngành thu hút còn rời rạc, thiếu sự liên kết, chưa thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp địa phương phát triển. Do đó, đề nghị đồng chí Trưởng ban Ban Quản lý Khu kinh tế làm rõ việc nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút các doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ sạch, tiết kiệm tài nguyên; tăng tỷ lệ vốn thực hiện; tăng tỷ lệ lấp đầy các Khu công nghiệp; xử lý đối với các chủ đầu tư và dự án chậm tiến độ; hoàn thành mục tiêu thu hút 1 tỷ USD năm 2023.
Đối với 2 câu hỏi của đại biểu Nguyễn Hồng Dương và đại biểu Nguyễn Việt Dũng, Sở KH & ĐT và Ban Quản lý KKT sẽ có trả lời bằng văn bản cụ thể.
Phát biểu kết luận nội dung này, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tọa Kỳ họp, nhấn mạnh 5 năm qua Quảng Ninh liên tục dẫn đầu chỉ số PCI, đây là nỗ lực rất lớn trong cải cách hành chính của tỉnh. Bên cạnh đó, Quảng Ninh từ rất sớm đã có những nghị quyết chuyên đề để tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với kỹ năng lao động. Quảng Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp cận với môi trường đầu tư thông qua việc xây dựng các quy hoạch định hướng chiến lược phát triển với sự tham gia của các đơn vị tư vấn hàng đầu quốc tế. Đặc biệt Nghị quyết số 01 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV chính là bản chiến lược định hình thu hút đầu tư. Trong đó, có thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển công nghiệp chế biến chế tạo là động lực, là trụ cột để tạo ra những bước đột phá mới và cũng để tái cơ cấu ngành công nghiệp theo mô hình FDI thế hệ mới chất lượng cao - tăng trưởng xanh - sạch - công nghệ thân thiện với môi trường, gia tăng giá trị, tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, đồng chí lưu ý, việc thu hút đầu tư nước ngoài hiện tại trên địa bàn tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Đồng chí yêu cầu triển khai một số giải pháp trong thời gian tới. Trong đó, đối với 500ha đất sạch chuẩn bị đầu tư, các cơ quan chức năng lên kế hoạch thu hút đầu tư. Đồng thời rà soát lại quy hoạch các khu công nghiệp. Trong đó có đánh giá thực trạng về vấn đề quản lý sử dụng đất, vấn đề đầu tư hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp. Qua đó đảm bảo sự kết nối đồng bộ giữa trong và ngoài khu công nghiệp với hạ tầng thiết yếu, giao thông, điện, nước, nhà ở cho công nhân lao động. Rà soát quy hoạch trong khu công nghiệp để xem phân khu, xem quy hoạch mặt bằng các phân khu, quy hoạch sử dụng mặt bằng.
Bên cạnh đó, đồng chí đề nghị UBND tỉnh tập trung đánh giá lại mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư để xây dựng lại cơ quan đầu mối đủ năng lực, đảm bảo hiệu lực hiệu quả hoạt động với sự thống nhất cao nhất; phân định rõ trong và ngoài KCN.
Đề nghị UBND tỉnh chú trọng hình thức xúc tiến đầu tư trực tiếp với các nhà đầu tư thông qua các cơ quan ngoại giao và các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương. Tiếp tục tập trung 3 khâu đột phá, trong đó có hạ tầng KCN, hạ tầng giao thông, nguồn nhân lực và xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh.
Cuối cùng, chúng ta cần tập trung vào chuyển đổi số, hoàn thiện các nội dung mà nhà đầu tư quan tâm mà chúng ta chưa trả lời. Trong công tác xúc tiến đầu tư cũng không thể không nói tới vấn đề về truyền thông để tạo sự đồng thuận xã hội trong xúc tiến đầu tư. Tránh trường hợp tỉnh thì rất hoan nghênh nhà đầu tư nhưng xuống đến các xã, phường thì lại lắc đầu.
Kết luận nội dung này, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy nhấn mạnh trách nhiệm trong công tác xúc tiến đầu tư thì vai của Giám đốc Sở KH&ĐT rất quan trọng.
* SỬ DỤNG ĐẤT ĐÁ THẢI MỎ LÀM VẬT LIỆU SAN LẤP ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG
Chất vấn Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Trần Như Long, đại biểu Phạm Thành Trung, Tổ đại biểu TP Uông Bí đề nghị người đứng đầu Sở Tài nguyên và Môi trường làm rõ kết quả thực hiện chủ trương sử dụng đất đá thải mỏ để phục vụ san lấp mặt bằng và lợi ích, hiệu quả của chủ trương.
Thực hiện chủ trương tận dụng đất đá thải mỏ để phục vụ san lấp mặt bằng, đặc biệt là các dự án không có yêu cầu kỹ thuật thi công phức tạp để bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ an toàn bãi thải mỏ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tích cực vào cuộc, báo cáo cấp thẩm quyền cấp phép khai thác, sử dụng đất đá thải mỏ tại một số địa phương để phục vụ san lấp mặt bằng các công trình dân dụng và công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Đại biểu đề nghị Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm rõ kết quả thực hiện chủ trương nêu trên? Đến nay tỉnh đã có bao nhiêu khu vực đất đá thải mỏ được cấp phép; đánh giá lợi ích, hiệu quả của nguồn vật liệu san lấp này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các địa phương?
Cũng vấn đề này, đại biểu Trần Thị Thùy Liên, Tổ đại biểu TP Hạ Long đề nghị Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường đánh giá rõ tác động đến môi trường của việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp.
Hiện nay, còn một số ý kiến có băn khoăn, lo ngại việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường, nhất là các khu vực ven biển, gần nguồn nước sinh hoạt; đề nghị Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho biết việc sử dụng loại vật liệu san lấp này có đảm bảo các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường hay không; kết quả đánh giá tác động môi trường khi sử dụng loại vật liệu này?
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Trần Như Long trả lời nội dung chất vấn:
Những năm qua tỉnh Quảng Ninh luôn thực hiện hiệu quả chủ trương đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi khối lượng san lấp mặt bằng rất lớn. Theo tính toán nhu cầu khối lượng san lấp đến năm 2025 là 595 triệu m3; gia đoạn 2026-2030 là 510 triệu m3. Do vậy việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp vừa đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt về san lấp mặt bằng, tiết kiệm được kinh phí cho cải tạo, phục hồi môi trường, vừa giải quyết được vấn đề diện tích đổ thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhằm phát triển kinh tế tuần hoàn phù hợp với chỉ đạo của Bộ Chính trị.
Từ khi hình thành và phát triển ngành Than trước khi Luật Khoáng sản có hiệu lực, Quảng Ninh đã sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp như khu trung tâm TP Hạ Long, TP Cẩm Phả.
Trước nhu cầu đột biến trong những năm gần đây, đồng thời thực hiện Luật Khoáng sản từ năm 2019 đến nay, Sở TN&MT đã phối hợp với các sở, ngành, địa phương và các đơn vị ngành Than tham mưu cho UBND tỉnh và Bộ TN&MT xem xét giải quyết một số cơ chế chính sách cấp phép cho sử dụng đất đá thải mỏ đến nay đã có những kết quả nhất định. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 4 trường hợp được Bộ TN&MT đồng ý cho khai thác thu hồi, với tổng khối lượng khoảng 12,4 triệu m3. Thời gian tới, dựa trên nhu cầu thực tiễn và đề xuất của các đơn vị ngành Than, sở sẽ tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh đẩy mạnh triển khai nội dung trên, đồng thời xác định 32 vị trí bãi thải mỏ để khai thác, thu hồi đất đá thải mỏ có thể làm vật liệu san lấp đưa vào Phương án BVMT trong Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh.
Liên quan đến câu hỏi của đại biểu Trần Thùy Liên, Tổ Đại biểu Hạ Long, việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp có ảnh hưởng đến môi trường không? Trong các Quyết định Báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ TN&MT đều phân biệt đất đá thải mỏ chất thải rắn công nghiệp thông thường đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng.
Việc đưa vào khai thác, sử dụng đất đá thải mỏ tại 4 bãi thải gần đây đã bước đầu giải quyết được nhu cầu cầu vật liệu san lấp một số dự án của tỉnh, đã hạ độ cao bãi thải, giảm chi phí cải tạo phục hồi môi trường, giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí, nguy cơ sạt lở trong quá trình đổ thải, tăng thu ngân sách (thông qua cấp quyền thu tiền khai thác mỏ)…
Để thúc đẩy sử dụng hiệu quả nguồn sử dụng bền vững nguồn đất đá thải, thời gian tới cần tập trung một số nhiệm vụ:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hiệu quả và sự phù hợp của việc thực hiện chủ trương, chính sách tăng cường sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp trong bối cảnh hiện nay, vừa giải quyết được vấn đề khó khăn trong nguồn vật liệu san lấp, hạn chế khai thác đất đồi, hạn chế phá vỡ cảnh quan tự nhiên, đồng thời tiết kiệm, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản, góp phần phát triển nền kinh tế tuần hoàn.
Tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương với ngành Than và Tổng Công ty Đông Bắc để đẩy nhanh tiến độ tham mưu, giải quyết thủ tục khai thác, sử dụng đất đá thải mỏ đúng quy định, từng bước thay thế cho vật liệu san lấp truyền thống; tăng cường giám sát việc khai thác, vận chuyển và sử dụng đảm bảo tránh thất thoát tài nguyên, không gây ô nhiễm môi trường và sử dụng đúng mục đích.
Tiếp tục bám sát Bộ TN&MT để xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện quy trình thủ tục cấp phép khai thác các khu vực bãi thải mỏ; trọng tâm là đề xuất tăng cường phân cấp và sửa đổi một số nội dung trong Luật Khoáng sản để giảm thiểu các thủ tục hành chính, thời gian cấp phép khai thác các bãi thải mỏ.
Đại biểu Đinh Trung Kiên, Tổ đại biểu Vân Đồn - Cô Tô, đề nghị Giám đốc Sở Xây dựng trả lời về giải pháp kiểm soát chi phí khai thác đất, đá thải mỏ phục vụ san lấp các dự án và giải pháp đảm bảo nguồn vật liệu san lấp ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Liên quan đến nội dung này, đồng chí Nguyễn Mạnh Tuấn, Giám đốc Sở Xây dựng, làm rõ: Đối với chủ trương dùng đất, đá thải mỏ để san lấp mặt bằng dự án, Sở cũng đã phối hợp với các ngành liên quan tính toán cụ thể. Theo đó, chi phí đối với 1m3 đất, đá thải mỏ để đưa ra san nền sẽ gồm 2 nhóm chi phí: Một là chi phí bốc xếp, vận chuyển đất, đá thải mỏ từ bãi thải mỏ đến điểm tập kết và chi phí từ điểm tập kết đến dự án. Với chi phí thứ nhất, qua tính toán, dao động 30-50 nghìn đồng/m3, thật sự rất là thấp, đó là nhóm chi phí chính thức. Tuy nhiên, chi phí thứ hai là chi phí vận chuyển từ bãi tập kết đến dự án thì phải căn cứ vào nhiều yếu tố, như phương án vận chuyển, bốc xếp, loại hình, công suất vận chuyển, quãng đường… thì sẽ bị đội lên rất nhiều.
Do đó, về giải pháp, ngành đề nghị khi lựa chọn đất, đá thải mỏ phục vụ san lấp phải lựa chọn điểm thuận lợi về chất lượng, khoảng cách, nhất là gần với điểm trung chuyển của ngành Than để giảm chi phí. Đồng thời, xây dựng, tính toán phương án vận chuyển tối ưu hóa để giảm chi phí tối đa, nên tận dụng tối đa các bến bốc xúc của ngành Than. Về phía ngành Xây dựng, ngành cũng sẽ có trách nhiệm thẩm tra, công bố đơn giá trần tối đa áp dụng cho 1m3, nguyên tắc là sẽ tính đúng, tính đủ để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên, tạo điều kiện thu hút đầu tư cho các doanh nghiệp.
Còn đối với giải pháp sử dụng nguồn nguyên vật liệu đất, đá thải mỏ các dự án san lấp mặt bằng ở những địa phương xa khai trường than thì chắc chắn chi phí vận chuyển sẽ bị đội lên rất nhiều do khoảng cách, do đó, các nhà đầu tư có thể nghiên cứu các phương án san lấp mặt bằng khác, hợp lý hơn.
Phát biểu kết luận nội dung này, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, khẳng định: Đây là một vấn đề trong suốt hành trình xây dựng, phát triển của tỉnh đều được lãnh đạo tỉnh và nhân dân rất quan tâm. Thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh tiến hành chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu sang xanh”, phát triển “kinh tế tuần hoàn” với những bước đi rất chặt chẽ, bài bản. Vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa xin ý kiến Trung ương.
Làm rõ thêm về những cơ sở trong việc tận dụng nguồn đất đá thải mỏ, đồng chí Chủ tọa kỳ họp cho biết: Nếu xét về cơ sở khoa học, việc sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp đã được các nhà khoa học chứng minh, có luận cứ rõ ràng, như cuốn “Công nghệ Địa môi trường cho bảo vệ môi trường vùng khai thác và chế biến khoáng sản” của Giáo sư, TSKH Mai Trọng Nhuận là công trình nghiên cứu tiêu biểu chỉ ra các công nghệ sử dụng đảm bảo an toàn về môi trường, không hề có tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, sinh thái nhất là môi trường đất, nước.
Đặc biệt trong thực tiễn, tỉnh Quảng Ninh đã mở rộng diện tích mặt bằng TP Cẩm Phả, mở rộng đất đô thị khu vực Hòn Gai (từ trước năm 1945 đến nay), TP Hạ Long đã tái sử dụng đất đá thải mỏ than Hà Tu, Núi Béo… giảm áp lực bằng công nghệ địa môi trường đổ lấp biển theo quy hoạch. Biện pháp này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu cao về diện tích mặt bằng cho việc phát triển đô thị hẹp kéo dài và thu hẹp đất hữu dụng do bãi thải mỏ than gây ra, tạo khu đô thị hiện đại, bờ biển sạch đẹp, nâng cao chất lượng cảnh quan du lịch Bái Tử Long, Hạ Long.
Trong khi đó hiện nay, mỗi năm, các mỏ than đưa ra các bãi thải khoảng 150 triệu m3 đất đá, tổng diện tích bãi thải khoảng 4.000ha. Nhiều bãi thải có cao độ từ 200 - 300m, nguy cơ sạt lở lớn. Nếu cứ đà này, đến năm 2030, các bãi thải sẽ uy hiếp trực tiếp đến hệ thống giao thông, dân cư ở phía dưới. Nếu không được tái sử dụng, các bãi thải mỏ sẽ vừa chiếm diện tích đất, vừa gây mất an toàn đến cuộc sống của nhân dân.
Như vậy rõ ràng đây là một nguồn lợi, nguồn lực rất lớn để Quảng Ninh khai thác sử dụng. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong sử dụng đất, đá thải mỏ làm vật liệu san lấp và phát triển kinh tế tuần hoàn ở Quảng Ninh.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đề nghị tập trung nhất quán chủ trương của tỉnh trong nhiều năm qua về sử dụng đất đá thải mỏ để làm vật liệu san lấp trên cơ sở các quy định của Đảng, Nhà nước, đảm bảo mục tiêu cao nhất về kinh tế - xã hội, môi trường và đảm bảo chặt chẽ về đánh giá tác động với môi trường.
Đồng chí yêu cầu nội dung này phải có đề án tổng thể, trước mắt là đối với 4 vùng than Cẩm Phả, Hạ Long, Đông Triều, Uông Bí để giải quyết vấn đề đất đá thải mỏ trong khu vực, phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Việc triển khai cần thực hiện trên cơ sở đề xuất Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan liên quan để xin cấp phép. Đồng thời tính toán lại việc quy hoạch các mỏ đất, các điểm mỏ.
Tập trung truyền thông tạo sự đồng thuận xã hội trong nhân dân, trong cán bộ đảng viên, trong cộng đồng doanh nghiệp về chủ trương của tỉnh về thực hiện mục tiêu phát triển, xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành địa phương đi đầu về thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là các hoạt động khai thác khoáng sản gây ra và là địa phương điển hình trong phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.
Khi tiến hành hoạt động vận chuyển, bốc xúc, đổ thải phải giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các biện pháp đánh giá tác động môi trường được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Muốn triển khai thành công nội dung này, đồng chí yêu cầu phải có cách tiếp cận liên ngành trong Nhà nước, tiếp cận đa ngành, tiếp cận liên vùng.
* CẤP NƯỚC SẠCH AN TOÀN CHO NGƯỜI DÂN VÙNG NÔNG THÔN
Sau giờ nghỉ giải lao, Kỳ họp tiếp tục phiên chất vấn và trả lời chất vấn về nội dung đảm bảo nước sạch cho người dân
Chất vấn Giám đốc Sở NN&PTNT, đại biểu La Thị Thủy, Tổ đại biểu Tiên Yên - Bình Liêu - Ba Chẽ nhấn mạnh: Việc sử dụng nước sạch đảm bảo cho sức khỏe và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống là vấn đề được cử tri và nhân dân rất quan tâm, đặc biệt khi chủ đề công tác năm 2023, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân là vấn đề được nhấn mạnh.
Đại biểu đề nghị đồng chí Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết giải pháp cụ thể của ngành trong việc cụ thể hóa mục tiêu năm 2023, tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 98%; tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh đạt trên 99,99% (trong đó tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng nước sạch đáp ứng QCVN-02: 2009/BYT đạt trên 70%).
Cũng về vấn đề đảm bảo nước sạch cho nguời dân, đại biểu Nguyễn Anh Tuấn, Tổ đại biểu Đông Triều, đề nghị đồng chí Giám đốc Sở NN&PTNT đánh giá hiệu quả thực hiện của Chương trình cấp nước tập trung nông thôn tại một số địa phương như Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Móng Cái trước thực trạng và phản ánh của cử tri về việc hiệu quả sử dụng các công trình chưa như mong muốn, tỷ lệ sử dụng nước thấp, người dân chưa yên tâm về chất lượng nước của dự án; hệ thống công trình không duy tu, bảo trì thường xuyên…
Đồng thời đề nghị cho biết nguyên nhân của những tồn tại hạn chế nêu trên; giải pháp cụ thể để phát huy hiệu quả khai thác, sử dụng của các công trình này nhằm đảm bảo nhu cầu sử dụng nước sạch cho người dân khu vực nông thôn; tính khả thi của phương án chuyển giao công trình cho tư nhân quản lý để huy động nguồn lực xã hội hóa đầu tư, cải tạo, nâng cấp các công trình để tiếp tục khai thác có hiệu quả.
Trả lời câu hỏi của đại biểu La Thị Thủy, đồng chí Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc NN&PTNT, thông tin cụ thể về hiện trạng cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh như sau: Hiện tỉnh có 18 công trình thuộc vùng đồng bằng; 13 công trình thuộc vùng hải đảo; 178 công trình thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới.
Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch ở khu vực nông thôn là 57,3%, còn khá thấp so với tỷ lệ đạt trên 70% theo mục tiêu Nghị quyết của tỉnh đặt ra.
Với trách nhiệm của ngành, đồng chí Giám đốc Sở NN&PTNT đề xuất một số giải pháp nổi bật sau: Phải tổ chức đánh giá lại toàn bộ hiện trạng của tất cả các công trình cấp nước; rà soát nguồn cấp đầu vào. Từ đó đưa ra đánh giá về chất lượng nguồn nước đầu vào và đưa ra công nghệ xử lý nguồn nước.
Đối với công trình cấp nước tập trung chưa có hệ thống xử lý đầu nguồn thì phải có giải pháp, nguồn lực hỗ trợ người dân xử lý chất lượng nguồn nước.
Đối với những công trình cấp nước phân tán, nhỏ lẻ cần phải xây dựng quy đình xử lý nước đầu vào và mô hình đồng quản lý. Tại các khu vực hải đảo, khu vực không thể có nguồn sinh thủy thì sử dụng nguồn nước ngầm và nguồn nước mặt được thu gom từ nguồn nước mưa và có biện pháp xử lý nhỏ lẻ để cấp cho nhân dân.
Sở cũng đề nghị phải xây dựng được quy chế, quy trình quản lý các công trình, đặc biệt đối với công trình nước sạch nông thôn và phát triển rừng đầu nguồn bền vững. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp cũng cần được chú trọng quản lý. Cuối cùng là đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động về đấu nối để nhân dân tăng cường sử dụng các công trình cấp nước tập trung.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Anh Tuấn về chất lượng đấu nối các công trình cấp nước tập trung ở Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Móng Cái, đồng chí Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết: Sở đã rà soát 5 công trình cấp nước tập trung do Công ty TNHH MTV Thủy lợi Miền Đông quản lý và cho thấy chất lượng công trình khá tốt nhưng công suất khai thác trung bình đạt 20,21%, tổng số đấu nối đạt 45,04%. Như vậy là tỷ lệ đấu nối rất thấp. Do đó, Sở đề nghị các địa phương phải tăng cường công tác tuyên truyền với người dân để tăng tỷ lệ đấu nối, sử dụng hiệu quả công trình.
Hiện Sở NN&PTNT đang xây dựng đề án để báo cáo UBND tỉnh giao cho thực hiện đấu thầu nhà đầu tư để khai thác, quản lý, vận hành. Từ đó tăng cường hiệu quả đầu tư, giảm quản lý theo mô hình nhà nước như hiện nay.
Đại biểu Vũ Đình Nhân, Tổ đại biểu Cẩm Phả:
Để tăng độ phủ giúp người dân sử dụng nước sạch, đặc biệt là các khu vực dân cư ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo còn rất khó khăn về nguồn nước được tiếp cận và sử dụng nước sạch, đảm bảo vấn đề về an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu của tỉnh đặt ra cho năm 2023 và những năm tiếp theo. Đề nghị đồng chí Giám đốc Công ty Nước sạch Quảng Ninh (Quawaco) cho biết Công ty sẽ có kế hoạch và giải pháp triển khai thực hiện cụ thể như thế nào trong thời gian tới?
Đại biểu Nguyễn Thị Định, Tổ đại biểu TP Hạ Long:
Thời gian qua, cử tri ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh có kiến nghị về chất lượng nước sinh hoạt chưa đảm bảo theo yêu cầu, tình trạng ống thép có dấu hiệu xuống cấp, có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng nước được cung cấp, bó ống cần được cải tạo để đảm bảo mỹ quan đô thị cũng như tăng năng lực cấp nước cho người dân, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của cử tri.
Đề nghị đồng chí Giám đốc Công ty Nước sạch Quảng Ninh cho biết việc giải quyết các kiến nghị của tri liên quan đến chất lượng dịch vụ cấp nước của đơn vị và giải pháp khắc phục, tiến độ xử lý dứt diểm các kiến nghị của cử tri trong thời gian tới như thế nào?
Trả lời chất vấn của đại biểu Vũ Đình Nhân, Tổ đại biểu Cẩm Phả, về tăng độ phủ người dân sử dụng nước sạch, nhất là ở khu vực dân cư miền núi, biên giới, hải đảo, ông Vũ Văn Tuấn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Nước sạch Quảng Ninh giải trình như sau:
Hiện trên địa bàn tỉnh có 9 đơn vị cấp nước thực hiện cung cấp nước sạch cho hộ dân các địa phương trong tỉnh (trừ Cô Tô). Thực hiện Nghị quyết số 12 của BCH Đảng bộ tỉnh, đến năm 2023, độ phủ cấp nước ở đô thị 98%, với chỉ tiêu này, hiện Công ty đang thực hiện đảm bảo kế hoạch, trong đó có một số địa phương như Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn… có tỷ lệ phủ cấp nước 100%. Còn đối với chỉ tiêu trên 70% số hộ ngoài đô thị sử dụng nước sạch hợp chuẩn, hợp quy, theo ông Tuấn, hiện có một số khó khăn, do việc phân bố dân cư thưa thớt, trong khi nhu cầu sử dụng nước sạch của các hộ này thấp, chủ yếu là giếng khơi, khe suối, nước mưa, như vậy thì tỷ suất đầu tư trên một hộ gia đình sẽ rất lớn,… do đó, hiệu quả đầu tư được Công ty đánh giá khó khăn.
Để đảm bảo chỉ tiêu đến năm 2023, 70% số hộ ngoài đô thị được sử dụng nước sạch hợp chuẩn hợp quy, đại diện Công ty Nước sạch Quảng Ninh cũng nêu ra một vài giải pháp như: cần vào cuộc chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ của các bên liên quan là chính quyền, đơn vị cấp nước, người dân. Trong đó, chính quyền tạo điều kiện, phân bổ nguồn lực đầu tư, công ty cấp nước nghiên cứu, xây dựng phương án triển khai và người dân hưởng ứng, thấy được ý nghĩa của việc sử dụng nước sạch đối với sức khỏe.
Về giải pháp lâu dài, hiện tỉnh cũng đã lập đề án đảm bảo an toàn an ninh nguồn nước và đề án cấp nước sạch nông thôn… Hai đề án này nếu được triển khai quyết liệt thì mục tiêu 70% người dân được sử dụng nước sạch hợp chuẩn, hợp quy sẽ sớm hoàn thành.
Giải trình chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Định, Tổ đại biểu Hạ Long, về chất lượng dịch vụ cấp nước tại một số địa bàn ở TP Hạ Long, ông Tuấn khẳng định: Hiện nay, chất lượng nước cung cấp của công ty được thực hiện quản lý theo bộ quy chuẩn quốc gia. Trong quá trình triển khai thực hiện cấp nước, chất lượng nước của công ty được CDC Quảng Ninh thường xuyên kiểm tra bằng các hình thức thường kỳ và đột xuất.
Đối với hiện tượng một số hộ dân xuất hiện nước máy có màu vàng, hiện tượng này là cục bộ ở một số vị trí do đường ống thép của mạng lưới cấp nước cũ của công ty và một số khu đô thị, đường ống sau đồng hồ đo nước vào hộ dân, sau một quá trình sử dụng đã xuất hiện tình trạng oxi hóa gây rỉ sét. Theo thống kê trên địa bàn tỉnh còn trên 170.000m đường ống thép, kẽm.
Để giải quyết vấn đề này, Công ty Nước sạch Quảng Ninh có kế hoạch đến năm 2025 sẽ thay thế toàn bộ đường ông trên bằng ống nhựa. Đối với vấn đề bó ống, theo khảo sát của công ty vấn đề này do một số hộ dân tự kéo đường ống, gây tình trạng giám khả năng điều tiết nước, tăng khả năng thất thoát nước. Để giải quyết tình trạng đó, công ty đã phối hợp với các địa phương tiến hành rà soát và cải tạo các đường ống bó, đảm bảo yêu cầu cung cấp nước trên địa bàn.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Vân Hà liên quan đến thực hiện Nghị quyết 19 của Tỉnh ủy và Nghị quyết 337 của HĐND tỉnh, Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết: Trong 1 năm triển khai Nghị quyết 337 cũng phát hiện ra những bất cập, Sở đề xuất các giải pháp: Phải tập trung xây dựng lại đề án phát triển lâm nghiệp bền vững gắn với quy hoạch vùng trồng cho từng loại cây, quy trình trồng, chăm sóc cho các loài cây đang tập trung trồng theo tinh thần Nghị quyết. Đồng thời, đề xuất mở rộng thêm đối tượng đối với các chủ rừng, cộng đồng dân cư và các chủ thể khác để đảm bảo rừng đầu nguồn thực sự phát triển bền vững.
Kết luận vấn đề nước sạch cho người dân, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, nhấn mạnh: Cấp nước sạch an toàn là nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ sức khỏe, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đảm bảo an ninh nguồn nước, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, là chủ trương đúng đắn của Trung ương và và tỉnh Quảng Ninh. Trong những năm qua, tỉnh đã quan tâm đầu tư củng cố, nâng cấp các hồ chứa nước và cơ sở hạ tầng cấp nước để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân, nhất là người dân ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Tuy nhiên, chỉ tiêu tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch của tỉnh hiện mới đạt 46%, thấp so với tỷ lệ trung bình 50% của toàn quốc.
Nghị quyết 10-NQ/TU, ngày 26/9/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đề ra mục tiêu Đến năm 2025: 98% hộ gia đình ở đô thị và 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn. Đến năm 2030: 100% hộ gia đình ở đô thị, trên 85% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn, tối thiểu 60 lít/người/ngày; với chủ trương, quan điểm chỉ đạo: Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý; người dân ở khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo được sử dụng nước sạch, đạt tiêu chuẩn, nâng cao chất lượng nước cấp ở khu vực đô thị.
Để thực hiện đạt mục tiêu đến hết năm 2023, 70% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia, đồng chí Chủ tọa Kỳ họp yêu cầu trước hết, các cấp, các ngành cần nhanh chóng triển khai khảo sát, đánh giá đúng thực trạng sử dụng nước của người dân. Trong đó, UBND cấp huyện phải chủ trì, UBND cấp xã tổ chức thực hiện và thôn, bản, khu phố trực tiếp khảo sát, tăng cường trách nhiệm của cộng đồng và vai trò giám sát của MTTQ, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể các cấp. Cần tính toán cách tiếp cận tổng thể, đảm bảo tất cả mọi người dân có nước sạch sinh hoạt với mức giá phù hợp nhất, theo hướng công bằng nhất. Sau khảo sát, phải có đề án cụ thể, có mô hình đảm bảo tính bền vững. Từ khi xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện đến vận hành các mô hình đều phải có sự tham gia của chủ thể thụ hưởng là cộng đồng dân cư, theo đúng tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”…
Đồng chí Chủ tọa nêu rõ, trong đề án này phải giải quyết 3 vấn đề, 3 câu hỏi lớn. Đó là tăng số công trình cấp nước sạch tập trung cho các nơi hiện nay chưa có công trình, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng bị xâm nhập mặn, hải đảo. Những nơi không thể có nguồn nước để đảm bảo có công trình cấp nước gần với nơi dân cư, gần với yêu cầu nhu cầu của hộ tiêu thụ thì các công trình cấp nước nhỏ lẻ hộ gia đình gắn với có công nghệ xử lý phù hợp để có nước sạch hợp chuẩn, hợp quy. Mô hình quản lý vận hành sau khi công trình được vận hành. Đây là những vấn đề mà cấp huyện, cấp xã cần thực hiện.
Phải truyền thông cho người dân nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của việc sử dụng nước sạch, thay đổi thái độ, hành vi trong việc sử dụng nước tiết kiệm. Phải gìn giữ nguồn sinh thủy bền vững. Về chính sách tạo ra bước phát triển mới, phải xây dựng chính sách phù hợp với pháp luật để thúc đẩy mục tiêu được thực hiện nhanh hơn, trong đó phải gắn với các chủ thể cụ thể.
Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh: Nâng cao chất lượng cuộc sống người dân là mục tiêu tỉnh Quảng Ninh hướng đến vì vậy các sở, ngành phải xác định đây là nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu gắn với đô thị hóa.
* THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI SỐ TOÀN DIỆN
Đại biểu Trần Thùy Liên, Tổ đại biểu Hạ Long:
Đề án chuyển đổi số Quốc gia, Nghị quyết của Tỉnh uỷ; Chương trình hành động của UBND tỉnh đều cho thấy vai trò và tầm quan trọng của nền tảng số, xây dựng Chính quyền điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là giải pháp đột phá để thực hiện chuyển đổi số Quốc gia. Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Thông tin - Truyền thông cho biết tiến độ và kết quả thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng như những giải pháp trong thời gian tới?
Đại biểu Đào Biên Thùy, Tổ Đại biểu Hải Hà - Đầm Hà:
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, để xã đạt chuẩn Nông thôn mới kiểu mẫu có tiêu chí xây dựng mô hình thôn thông minh; để huyện đạt Nông thôn mới nâng cao phải có chỉ tiêu tiêu chí xã thông minh. Tuy nhiên để đáp ứng được tiêu chí này, đòi hỏi rất nhiều yếu tố từ cơ sở hạ tầng đến nguồn nhân lực,... công tác tuyên truyền, tập huấn, sự vào cuộc của nhân dân. Để huyện hoàn thành nông thôn mới nâng cao, là cơ sở để tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
Đề nghị đồng chí cho biết giải pháp và hướng dẫn của Sở trong xây dựng, triển khai tiêu chí này?
Đại biểu Nguyễn Chiến Thắng, Tổ đại biểu Đông Triều:
Theo báo cáo của UBND tỉnh, đến nay tỉnh Quảng Ninh không còn thôn bản nào không có dịch vụ viễn thông, các nhóm hộ vùng sâu, vùng xa cũng đã được phủ sóng di động. Đây là những nỗ lực rất lớn đáng ghi nhận của ngành thông tin, truyền thông. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế và phản ánh của cử tri vẫn còn vùng lõm ở các thôn, bản, điểm dân cư sóng rất yếu, nhất là ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo; ngay tại khu đô thị, như địa bàn thành phố Hạ Long, có khu vực không có sóng 3G, 4G, 5G, chỉ có mạng 2G.
Đề nghị đồng chí cho biết lộ trình cắt sóng 2G và phủ sóng mạng 5G, 6G trên địa bàn tỉnh?
16h45’: Trả lời phần chất vấn của đại biểu Trần Thùy Liên (Tổ đại biểu Hạ Long) về tiến độ và kết quả thực hiện chuyển đổi số, những giải pháp trong thời gian tới, đồng chí Lê Ngọc Hân, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông, khẳng định: Về chính quyền số, Quảng Ninh đang đứng đầu cả nước về tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công Quốc gia là 78% và số liệu này được giám sát trên Cổng theo thời gian thực. Thứ 2 là 100% các thủ tục đủ điều kiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 thì Quảng Ninh cũng đã hoàn thành để cung cấp cho người dân và doanh nghiệp. Thứ 3 là tỷ lệ nộp hồ sơ và giải quyết thủ tục hành chính ở mức độ 4, Quảng Ninh đang đạt tỷ lệ 73,67%, trong khi đó trung bình cả nước là 35% (tức là Quảng Ninh đã tăng 24% so với năm 2021 và vượt 20% so với chỉ tiêu Bộ TT&TT, Chính phủ đề ra). Như vậy Quảng Ninh đang nằm trong tốp đầu về chỉ số này.
Trong xây dựng Chính quyền số, Quảng Ninh cũng đi đầu về xây dựng, kết nối dữ liệu quốc gia, dữ liệu các bộ, ngành. Từ tháng 5/2022, Quảng Ninh là một trong 3 tỉnh đầu tiên trong cả nước hoàn thành kết nối dữ liệu dân cư và đến nay mới chỉ có 14 tỉnh hoàn thành.
Về mức độ chính quyền điện tử (chỉ số ICT), chỉ số này trong năm 2022 được cải thiện hơn rất nhiều. Hiện tỷ lệ hồ sơ được xử lý trên hệ thống chính quyền điện tử của cả 3 cấp đã tăng 60% so với năm 2021 và 90% người đứng đầu đã sử dụng chữ ký số; tỷ lệ văn bản gửi trên môi trường đạt 95% (5% là văn bản mật không thể gửi lên môi trường điện tử).
Kết quả nổi bật nữa là chỉ số về chính quyền điện tử, chính quyền số, thì hiện nay Quảng Ninh đang đứng ở vị trí thứ 2 về tính công khai, minh bạch; tiến độ giải quyết thủ tục hành chính cũng đứng thứ 2 và việc số hóa hồ sơ đứng thứ 5 cả nước. Tức là đã số hóa hồ sơ ngay từ khâu tiếp nhận để phục vụ mục tiêu thu thập thông tin của người dân và doanh nghiệp 1 lần để tái sử dụng trong giải quyết thủ tục hành chính.
Đối với phát triển kinh tế số, hiện 100% doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã sử dụng, khai thác hóa đơn điện tử; hộ kinh doanh cá thể đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử đạt 95,7%, phổ cập chữ ký số đến 100% doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh. 70% sản phẩm OCOP từ 3 sao của tỉnh đã lên sàn thương mại điện tử, bước đầu tạo được thói quen giao dịch, quảng bá sản phẩm trên sàn thương mại điện tử. Tỉnh cũng đã triển khai truy xuất nguồn gốc thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn và thực hiện mô hình cửa khẩu số
Đây chính là những kết quả nổi bật của tỉnh trong thực hiện chuyển đổi số.
Trả lời chất vấn của đại biểu Đào Biên Thùy, Giám đốc Sở TT&TT cho biết, năm 2022, đối với trụ cột xã hội số có 13 kết quả nổi bật. Trong đó có việc phủ lõm sóng thông tin di động đến các hộ dân hiện đã triển khai được tới 100% các xã, phường và thị trấn trong toàn tỉnh; hoàn thành xong việc phủ sóng cho 66 thôn lõm sóng. Phủ lõm hạ tầng internet cáp quang băng rộng, qua rà soát có 113 thôn trong vùng lõm, tới nay đã có 97 thôn được phủ sóng còn 16 thôn còn lại sẽ hoàn thành trong quý I năm 2023. Theo đồng chí Giám đốc Sở TT&TT, việc hoàn thành phủ sóng tại các thôn lõm sóng năm 2022, không có nghĩa là hoàn thành toàn bộ các điểm lõm sóng, bởi việc rà soát điểm lõm sóng cần tiếp tục được thực hiện thường xuyên, liên tục. Hiện, Sở TT&TT đã chỉ đạo các doanh nghiệp và có văn bản gửi các địa phương rà soát các điểm lõm sóng để tiếp tục triển khai. Hiện nay, tính trên tỉ lệ dân số của tỉnh, trung bình 1 người dân trưởng thành có 1,6 tài khoản thanh toán điện tử; tỉ lệ cá nhân, tổ chức sử dụng tài khoản thanh toán điện tử là 33%.
Điểm sáng hiện nay là trên địa bàn tỉnh đã phát triển được loại hình Mobile Money để tiến hành thanh toán điện tử với trên 317.000 thuê bao tài khoản trong toàn tỉnh. Đến nay, Quảng Ninh đã xây dựng và sẵn sàng hạ tầng số để triển khai cho chuyển đổi số vào những năm tiếp theo trên tinh thần kế thừa, phát huy hiệu quả các hạ tầng đã được đầu tư từ đề án xây dựng chính quyền điện tử, thành phố thông minh của tỉnh.
Về nội dung chất vấn của đại biểu Đào Biên Thùy, tổ đại biểu Hải Hà - Đầm Hà, về tiêu chí xây dựng thôn/xã thông minh, lãnh đạo Sở TT&TT cho biết: Với tiêu chí này, Sở đã chủ động tham khảo các ý kiến của Bộ, có văn bản số 2592/STTTT-BCVT ngày 15/11/2022 về việc hướng dẫn tạm thời thực hiện mô hình xã, thôn thông minh, đối với xã nông thôn mới kiểu mẫu, huyện nông thôn mới nâng cao, lĩnh vực nổi trội về chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025. Trong đó, xây dựng những yêu cầu cụ thể với từng mô hình xã thông minh, thôn thôn minh.
Ví dụ với thôn thông minh thì phải có hạ tầng viễn thông đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định, di động, truy cập internet cáp quang hoặc 3G,4G,5G...; có loa truyền thanh ứng dụng CNTT; có camera giám sát an ninh tại các vị trí trọng yếu; các hộ gia đình được gắn mã địa chỉ số; thôn có nhóm zalo hoặc hình thức trao đổi thông tin trên mạng; tỷ lệ gia đình sử dụng thanh toán tiền điện, nước qua tài khoản điện tử đạt trên 90%... Còn xã thông minh thì có trên 80% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên hệ thống chính quyền điện tử/chính quyền số; dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% các sản phẩm OCOP, sản phẩm nông nghiệp chủ lực được truy xuất nguồn gốc và được giới thiệu, quảng bá, thương mại điện tử thông qua ứng dụng trực tuyến/ sàn giao dịch thương mại điện tử; có ít nhất 1 mô hình kinh tế nông thôn có ứng dụng công nghệ số; có mạng wifi miễn phí khu vực công cộng; tỷ lệ hộ gia đình được phủ mạng Internet băng rộng cáp quang đạt từ 90% trở lên...
Thời gian tới, Sở sẽ phối hợp với Sở NN&PTNT tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng hướng dẫn tiếp theo khi mà Bộ NN&PTNT có những hướng dẫn cụ thể hơn để triển khai tốt tiêu chí này.
Kết luận nội dung chất vấn và trả lời chất vấn về chuyển đổi số, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tọa kỳ họp, khẳng định: Chuyển đổi số là vấn đề được cả nước quan tâm, tập trung nguồn lực triển khai thực hiện và Quảng Ninh không nằm ngoài xu thế tất yếu đó. Điều này được thể hiện rất rõ với việc tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 05/02/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 124/NQ-HĐND ngày 04/11/2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh gắn với chuyển đổi số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Hội đồng nhân dân tỉnh ghi nhận công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh và nỗ lực, cố gắng trong tham mưu, triển khai của Sở Thông tin và Truyền thông, các sở, ngành có liên quan và các địa phương trong chuyển đổi số. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề mà cử tri và nhân dân hết sức quan tâm, cần quyết liệt chỉ đạo trong thời gian tới, như: Nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu chuyển đổi số; cơ sở dữ liệu; nhận thức và sự tham gia của người dân trong chuyển đổi số; chuyển đổi số ở những địa bàn nông thôn, vùng khó khăn… Đây đều là những vấn đề được cử tri và nhân dân hết sức quan tâm.
Tỉnh xác định, mục tiêu chuyển đổi số là đi nhanh nhưng phải có tính vững, làm đâu chắc đó và phải có hiệu quả thực tế đo đếm được. Trong đó cần tập trung vào một số yếu tố trọng tâm, gồm: Hạ tầng thiết yếu phải được xây dựng theo hướng tận dụng tối đa cơ chế hợp tác, giảm chi phí; nhanh chóng xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu nền tảng, trước mắt là những lĩnh vực thiết yếu nhất liên quan đến đời sống người dân như y tế, giáo dục, giao thông, môi trường… đảm bảo đúng, đủ, sạch, sống; xây dựng được nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số theo hướng phát huy ý chí quyết tâm và đam mê sáng tạo của đội ngũ CBCCVC ở mỗi cơ quan đơn vị, chú trọng công tác đào tạo lại, nâng cao trình độ thông qua tập huấn bồi dưỡng…
Đặc biệt, các sở, ngành, cơ quan chức năng cần nhanh chóng xóa vùng lõm sóng điện thoại di động ở tất cả các vùng dân cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, nỗ lực hoàn thiện trong năm 2023. Xây dựng bộ công cụ đo lường, đánh giá, giám sát các chỉ tiêu chuyển đổi số để thúc đẩy nâng cao chất lượng, nâng cao hiệu quả thực tế.
Song song với đó phải chú trọng phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo đột phá trong tăng trưởng. Trong đó, trước mắt ngành Thông tin và Truyền thông và ngành Du lịch cần khẩn trương xây dựng bộ dữ liệu số về du lịch trên nền tảng đa ngôn ngữ; thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thương mại điện tử, ứng dụng chuyển đổi số vào phát triển các sản phẩm OCOP; đẩy mạnh và hoàn thiện hệ thống quan trắc môi trường tự động và tăng cường chức năng theo dõi, giám sát; tiếp tục củng cố trường học thông minh, bệnh viện thông minh; xây dựng đô thị thông minh…
Nhóm Phóng viên
Liên kết website
Ý kiến ()