Có những người không cùng sinh một ngày, một tháng nhưng cùng chung một chiến hào, cùng một ngày giỗ vào một ngày xuân bi tráng. Và hơn hết họ còn chung một tình yêu! Đó là câu chuyện tình của nữ mậu dịch viên Hoàng Thị Hồng Chiêm và Thượng sĩ biên phòng Bùi Anh Lượng 40 năm về trước trên đỉnh Pò Hèn.
Nữ mậu dịch viên Hoàng Thị Hồng Chiêm sinh năm 1954, quê ở thôn 4, xã Bình Ngọc, huyện Móng Cái (nay là TP Móng Cái), chị là cô gái trắng trẻo nhanh nhẹn, tháo vát, niềm nở nói năng dễ nghe nên được mọi người rất yêu quý.
Bà Hoàng Thị Liễm, chị gái của liệt sĩ Chiêm, kể rằng, em gái mình rất ham đọc sách, hay đi thư viện và thích ghi nhật ký: “Thích nghe chuyện, Chiêm còn thích đọc truyện. Cụ quản Tiến trong làng có một tủ sách. Bố tôi vẫn mượn sách về đọc, dù bố tôi có cất kín đến đâu thì Chiêm vẫn tìm ra bằng được và đọc ngấu nghiến. Sau này Chiêm vẫn giữ cái tính mê đọc sách như thế”.
Chị từng khai tăng tuổi để được đi bộ đội và từng là một chiến sĩ của Trung đoàn 8, Quân khu 3. Năm 1975, Hoàng Thị Hồng Chiêm chuyển ngành về làm ở Hợp tác xã Mua bán huyện Móng Cái, rồi được điều lên làm mậu dịch viên của cụm thương nghiệp Pò Hèn gần Đồn Công an vũ trang 209 (nay là Đồn biên phòng Pò Hèn). Chị thường xuyên vượt 30 km đường rừng để chuyển hàng lên điểm cao biên giới.
Ở Pò Hèn, chị đã gặp và đem lòng yêu Thượng sĩ Bùi Anh Lượng, cán bộ vận động quần chúng của Đồn Công an vũ trang. Thượng sĩ Lượng quê ở xã Yên Hải, huyện Yên Hưng (nay là TX Quảng Yên). Chị đã quen anh qua những buổi tập bóng chuyền, tập biểu diễn văn nghệ. Thượng sĩ Bùi Anh Lượng có tiếng là cây đập tốt trong đội bóng chuyền của Đồn Công an vũ trang 209. Trong các đêm liên hoan văn nghệ, anh chị cùng hát chung bài “Trước ngày hội bắn”. Anh mê giọng hát của chị, còn chị thích xem anh đánh bóng chuyền. Tình yêu đã đến với họ một cách tự nhiên như hương quế lan tỏa trên núi rừng Pò Hèn. Anh em chiến sĩ trên Đồn Công an vũ trang 209 cũng đã coi chị như một thành viên của đồn.
Trong câu chuyện về người em trai liệt sĩ của mình, ông Bùi Văn Huy, hiện ở khu 3, phường Cao Xanh (TP Hạ Long) rưng rưng kể: Chú em tôi cao hơn tôi. Trắng trẻo đẹp trai lắm nên có nhiều cô gái thích chú ấy. Lượng và Chiêm yêu nhau hơn một năm. Vào dịp Tết Nguyên đán 1979, Lượng dẫn Chiêm về quê ăn Tết. Nhà tôi neo người chỉ có 2 anh em trai, 2 chị em gái đã lấy chồng xa. Bố tôi đã mất sớm. Lượng muốn động viên mẹ nên dẫn người yêu về và lên kế hoạch tới đây sẽ làm lễ ăn hỏi lễ cưới. Bà cụ mừng lắm và đang chuẩn bị sắm sửa trầu cau, háo hức đợi chờ. Có ai ngờ em tôi trở lại đơn vị thì giặc xâm lược biên giới. Và em tôi không bao giờ về nhà nữa...
Đại tá Nguyễn Quang Vinh, nguyên Phó Chỉ huy trưởng chính trị Bộ đội biên phòng Quảng Ninh (nay là Chính ủy) nhớ lại: Khoảng 5 giờ 30 phút, từ bên kia biên giới, quân xâm lược phía Bắc dùng pháo binh cỡ lớn 105, 85, cối 82, 60, súng bộ binh 12,7, đại liên đồng loạt bắn phá dữ dội vào các mục tiêu của ta. Sau 30 phút bắn phá, chúng dùng một lực lượng bộ tăng cường và lực lượng dân binh tại chỗ, bắn phá dữ dội vào trung tâm Đồn và các trạm, chốt của Đồn.
Các chiến sĩ Trạm Kiểm soát Pò Hèn lui về đồn phối hợp chiến đấu, đánh địch bảo vệ mục tiêu dưới sự chỉ huy của Đồn phó quân sự Đỗ Sỹ Họa. Chốt Đồi Tây gồm 5 cán bộ, chiến sĩ, giáp bờ sông biên giới bị chúng bao vây, tiêu diệt, các chiến sĩ của ta hy sinh. Chốt Đồi Quế, là một điểm hỏa lực được trang bị mạnh, gồm 9 cán bộ, chiến sĩ, một đồng chí đi công tác, còn lại 8 người, đã phát huy cao độ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường.
Trước đó, chiều 16/2, nữ tự vệ ngành thương nghiệp Hoàng Thị Hồng Chiêm đã nhận lệnh của cửa hàng trưởng tên là Vượng lên dọn dẹp một số hàng ở kho. Nhân tiện, chị cũng qua thăm người yêu cổ vũ cho anh Lượng đánh bóng chuyền buổi chiều.
Chiến tranh nổ ra chị đã kiên cường cùng các chiến sĩ bám trụ đánh địch khi trong tay mình chỉ có một khẩu CKC và hai quả lựu đạn. Chị dõng dạc khẳng định với đồng đội: “-Các anh cứ đi trước để em yểm trợ. Trước ở trung đoàn 8 làm đường Ba Chẽ em được huấn luyện để dùng súng và lựu đạn rồi”.Và chị Chiêm đã ném lựu đạn, bắn yểm trợ để đồng đội tránh được đạn pháo, còn chị sau đó một mình chạy về chốt chiến đấu của đồn. Thấy vậy, Đồn phó Đỗ Sỹ Họa vẫn vui đùa: “-Cô Chiêm! Cô lên thật đúng lúc, Lượng đang nhắc cô bên kia”.
Chị Chiêm, anh Lượng, Chủ tịch xã Pò Hèn Cao Lê Thắng, cửa hàng trưởng Vương, y sĩ Định và nhiều đồng đội khác đã sát cánh bên nhau chiến đấu cho đến lúc hy sinh. Ông Hoàng Như Lý, nguyên cán bộ trinh sát của Đồn Công an vũ trang 209, một trong 4 chiến sĩ còn sống sót sau trận 17/2, bùi ngùi nhớ lại: “Ban đầu chúng tôi khuyên chị lui về tuyến sau nhưng chị kiên quyết xin đồn phó Đỗ Sỹ Họa cho chị sát cánh bên bộ đội chiến đấu”. Chị đã lao vào băng bó cho thương binh, tiếp đạn cho đồng đội và trực tiếp chiến đấu.
Thế rồi chị Hồng Chiêm bị thương vào tay trái, máu nhuộm đỏ cánh áo nhưng vẫn tiếp tục cầm súng đánh chặn giặc. Khi đồn phó Họa hy sinh chị đã phủ tấm chăn lên người anh. Lúc này, chị Chiêm gần như là người thủ lĩnh tinh thần của các chiến sĩ. Chị tiếp tục chiến đấu và bị thương lần thứ 2 khi một viên đạn găm trúng chân làm chị lảo đảo ngã xuống hào. Đồng đội Khổng Tiến Dũng đưa chị vào hầm.
Một lúc sau, chị đã được hạ sĩ Nguyễn Bá Chuyên phụ trách tiểu đội bảo vệ cổng chính trao cho khẩu K54 của đồn phó Đỗ Sỹ Họa vẫn dùng. Có súng, chị ra ngoài công sự để trở lại vị trí chiến đấu. Lần này, một loạt đạn trung liên quét mặt đồi làm chị bị thương rất nặng ở cột sống. Chị ngã xuống trên mảnh đất biên giới thiêng liêng của Tổ quốc khi bước vào tuổi 25. Thượng sĩ Lượng cũng hy sinh lúc đó, khi mới 26 tuổi.
Ông Huy nghẹn ngào làm ngưng câu chuyện kể với tôi. Chợt ông ngước lên bàn thờ nhà mình nơi có di ảnh 2 liệt sĩ bảo: Biết tin em tôi hy sinh mẹ tôi đau ốm rồi qua đời ngay trong năm đó. Bà cụ không kịp có con dâu.
Cả 2 người đã hy sinh nhưng mối tình của họ thì vẫn sống mãi. Với ông Huy và những đồng đội của liệt sĩ Lượng, liệt sĩ Chiêm họ không bao giờ chết cả. Bởi vậy, nhiều năm sau, đám cưới của 2 người vẫn được tổ chức. Ông Huy kể: “Tháng 8/2017, gia đình chúng tôi mới gặp lại nhau. Chúng tôi đã tổ chức ra Móng Cái rước dâu về Hạ Long. Đám cưới đơn sơ, người chứng kiến là họ hàng hai bên và đồng đội cũ của chú Lượng. Riêng nhà trai có 2 vợ chồng tôi và một cô em gái. Đám cưới cũng có đủ trầu cau nhưng chỉ thiếu cô dâu, chú rể. Gia đình tôi đem lễ và ảnh của Lượng từ Hạ Long ra Móng Cái”.
Xin dâu xong, nhà trai gửi lại nhà gái ảnh của liệt sĩ Lượng như thể trao rể và rước ảnh chân dung của liệt sĩ Chiêm về Hạ Long. Ông Huy là người thờ cúng em trai mình. Từ sau đám cưới đặc biệt này trên bàn thờ nhà ông có thêm di ảnh liệt sĩ Chiêm, em dâu của ông. Ông Huy nuối tiếc: "Giá như đừng có chiến tranh thì các em tôi đã rất hạnh phúc bên nhau. Nhưng thôi, giờ thì chắc linh hồn mẹ tôi và các em tôi đã được an ủi".
Vậy là họ đã được ở bên nhau. Sự hy sinh của họ đã thành bất tử. Tên người nữ mậu dịch viên đã từng được đặt cho một trường học ở quê hương chị, được nhà nghiên cứu Tống Khắc Hài viết thành truyện ký mang tên “Hoàng Thị Hồng Chiêm”. Chị cũng được các nhạc sĩ: Phạm Tuyên, Dân Huyền, Thế Song, Trần Minh đưa vào các ca khúc của mình. Nhà điêu khắc Lý Xuân Trường lúc sinh thời cũng đã làm một tượng đài về chị trên quê hương Móng Cái. Ngay năm 1979, Trung ương Đoàn cũng đã truy tặng liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm “Huy chương Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”, ghi tên chị vào trang sử truyền thống của Đoàn.
Ở Pò Hèn, một đài liệt sĩ, nhà lưu niệm và nhà bia được dựng lên ghi lại tên tuổi 86 liệt sĩ. Trên bia, tên của liệt sĩ Bùi Anh Lượng, có thứ tự là 12, liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm xếp thứ 59. Hài cốt của liệt sĩ Lượng cũng đã được gia đình đưa về an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ Hà Tu (TP Hạ Long).
Tình yêu của họ cũng đã đi vào cõi bất tử. Ông Hoàng Như Lý khẳng định: "Họ yêu nhau tha thiết. Tình yêu của họ gắn bó mật thiết với tình yêu quê hương đất nước. Do vậy dù họ không còn nữa nhưng hình ảnh của họ, tình yêu của họ vẫn trường tồn cùng mảnh đất này".
Và họ vẫn đang sống trong sử sách, trong phim ảnh, âm nhạc, trong tâm trí người đương thời và sống với tình yêu thủy chung của họ. Tôi tin vào điều ông Lý nói, như tin vào màu xanh của rừng quế, màu mây trắng trên đỉnh Pò Hèn kia. Mây vẫn quần tụ bên nhau. Và có thể ở một cõi xa xăm nào đó, anh chị cũng đang sát cánh bên nhau như 40 năm trước ở Pò Hèn.
Bài: Huỳnh Đăng
Trình bày: Hải Anh
Ý kiến ()