4
18
/
1100393
Dân số - yếu tố quan trọng để phát triển bền vững
longform
Dân số - yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

 

Dân số - yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, dân số được coi là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.

Ảnh với chú thích
Lãnh đạo Hội Bảo trợ NKT&TMC tỉnh và CLB Tình thương Thiện tâm Quảng Ninh tặng quà và vui Tết Trung thu cùng các cháu học sinh hoàn cảnh đặc biệt tại Cơ sở Bảo trợ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tỉnh.

                                 
Sớm nhận thức tác động của dân số đối với sự phát triển kinh tế-xã hội và hạnh phúc của nhân dân, ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 216/CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn với mục đích: “Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận của gia đình. 60 năm qua, chính sách dân số của Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài với nhiều thành tích ấn tượng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc. 

Vào những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, mức sinh của nước ta rất cao, gần như ở mức tự nhiên. Trung bình mỗi cặp vợ chồng có khoảng 7 con. Vì vậy, tỷ lệ tăng dân số lên tới 3,3%/năm, nghĩa là cứ khoảng 22 năm dân số lại tăng gấp đôi. Thời kỳ này, Việt Nam vừa ra khỏi 9 năm kháng chiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Để phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước chủ trương vừa phục hồi kinh tế vừa sớm khởi động cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình. Ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 216/CP về việc “sinh đẻ có hướng dẫn”, mở đầu cho sự ra đời của công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, với mục tiêu là giảm sinh để thực hiện được mô hình “Mỗi cặp vợ chồng có 2 con”.

Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh và những nguyên nhân khác, sau 30 năm, công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Mức sinh giảm còn chậm. Năm 1991, trung bình mỗi cặp vợ chồng có gần 4 con, tỷ lệ tăng dân số ở mức hơn 2,3%. Trước tình hình đó, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về Chính sách Dân số-Kế hoạch hóa gia đình. Chỉ sau 12 năm thực hiện Nghị quyết này, Chương trình Dân số-Kế hoạch hóa gia đình của Việt Nam đã thành công tốt đẹp.

Năm 2006, số con trung bình của một bà mẹ tính đến hết tuổi sinh đẻ, giảm từ 6,4 con giai đoạn (1960-1965) xuống còn 2,09 con (mức sinh thay thế). Sức khỏe bà mẹ trẻ em được cải thiện rõ rệt. Đây là mục tiêu mà suốt 45 năm Việt Nam kiên trì theo đuổi đã đạt được; đồng thời vượt mức mà mục tiêu Nghị quyết số 04-NQ/HNTW đề ra là năm 2015 mới đạt mục tiêu này. Thành tựu này cũng mang tính vượt trội, khi tại thời điểm này, các nước đang phát triển mức sinh vẫn còn khá cao: 2,8 con/phụ nữ; đặc biệt, các nước kém phát triển nhất là 4,7 con/phụ nữ, tức là cao hơn Việt Nam rất nhiều. Chính vì thành tích xuất sắc này, năm 1999, Liên hợp quốc đã tặng giải thưởng Dân số cho Việt Nam.

Ảnh với chú thích

Hội phụ huynh lớp 4A6, Trường Tiểu học Quang Trung (TP Hạ Long) hướng dẫn học sinh làm bánh Trung thu nhân dịp Tết Trung thu năm 2021.

Nhờ giảm sinh nhanh, Việt Nam đã khống chế được tình trạng “bùng nổ dân số”, góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Do mức sinh giảm nên quy mô gia đình ngày càng nhỏ. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư từ năm 1992 đến 2002, quy mô gia đình càng nhỏ thì thu nhập và chi tiêu bình quân một người/một tháng càng cao. Tính quy luật này đúng cho mọi năm, trên phạm vi toàn quốc và cả ở cấp độ vùng. Rõ ràng, mức sinh giảm đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân.

Mức sinh giảm cũng làm cơ cấu dân số theo tuổi của nước ta thay đổi mạnh mẽ. Năm 1979, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi, rất cao, tới 43%; trong khi đó, tỷ lệ dân số trong độ tuổi có khả năng lao động (từ 15 đến 64 tuổi) thấp, chỉ có 52%. Nhưng đến năm 2019, các tỷ lệ nói trên, tương ứng là 24% và 68%, hình thành nên cơ cấu dân số “vàng”. Theo các chuyên gia, cơ cấu dân số “vàng” đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam bình quân mỗi năm 1,2% trong giai đoạn 2009-2019.

Bên cạnh đó, do làm tốt công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình nên tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng tăng. Mặt khác, do ít con nên các gia đình có khả năng cho cả con trai và con gái đi học. Vì vậy, tỷ lệ nữ sinh khá cao, ở bậc Tiểu học và Trung học cơ sở hiện đã ngang bằng với nam sinh. Ở các bậc học cao hơn, tỷ lệ nữ sinh còn cao hơn nam sinh. Năm học 2020-2021, tỷ lệ nữ sinh trong các trường Trung học phổ thông là 55%, còn ở các trường Đại học là 53,3%. Các bà mẹ, đặc biệt là các bà mẹ trẻ có điều kiện tham gia học tập, nghiên cứu khoa học và công tác xã hội… nên tỷ lệ phụ nữ tham gia làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia vào cấp ủy, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân các cấp ngày càng tăng.

Ngoài những tác động tích cực trên, mức sinh giảm còn tác động tích cực đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội, như: giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong trẻ em, nâng cao chất lượng dân số, ngăn chặn đà giảm sâu một số chỉ báo về tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người… Như vậy, mức sinh giảm, dân số dần ổn định đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển bền vững.

PV

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu